Bản án về ly hôn số 07/2022/HNGĐ-ST 

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TỨ KỲ, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 07/2022/HNGĐ-ST NGÀY 20/04/2022  VLY HÔN 

Ngày 20 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải   DƯƠNG xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 04/2022/TLST-HNGĐ ngày 07 tháng  01 năm 2022 về việc ly hôn, theo Quyết định đ ưa vụ án ra xét xử số 07/2022/QĐXXST-  HNGĐ ngày 04 tháng 4 năm 2022 giữa các đ ương sự:

- Nguyên đơn: Chị Phùng Thị Đ, sinh năm 1972;

ĐKHKTT: thôn A, xã Q, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải  DƯƠNG;

- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn N (tức Phùng Văn N), sinh năm 1969;

ĐKHKTT: tổ dân phố .., thị trấn I, huyện I, tỉnh Gia Lai. Chị Đ có mặt, anh N có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn xin ly hôn, bản tự khai, biên bản lấy lời khai và các tài liệu khác có tại hồ sơ, nguyên đơn chị Phùng Thị Đ trình bày:

+ Về hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Văn N kết hôn với nhau năm 1989, tr ước khi kết hôn đ ược tự do tìm hiểu, tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND xã Q ngày 25/6/1989. Sau khi kết hôn, vợ chồng sinh sống tại địa ph ương đ ược khoảng  03 năm, vì kinh tế khó khăn nên vợ chồng chuyển vào tỉnh Gia Lai làm ăn, sinh sống. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2016, thì xảy ra nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng không hợp nhau trong cách sống, sinh hoạt cũng nh ư làm ăn kinh tế gia đình nên th ường xuyên xẩy ra xô xát, cãi vã, chiến tranh lạnh. Tuy vẫn sống cùng nhà nh ưng công việc của ai ng ười đó làm, cuộc sống của ai ng ười đó lo, không ai quan tâm đến ai. Chán nản với cuộc sống gia đình không có hạnh phúc nên tháng 6/2021, chị đã bỏ về quê tại thôn A, xã Q, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải  DƯƠNG sinh sống cho đến nay, anh N và các con vẫn làm ăn sinh sống trong   tỉnh Gia Lai, vợ chồng không còn quan tâm gì đến nhau. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, không có khả năng đoàn tụ, đề nghị Tòa án giải quyết cho anh đ ược ly hôn anh N để hai bên sớm ổn định cuộc sống.

+ Về con chung: Vợ chồng có ba con chung là Nguyễn Văn M, sinh ngày  19/5/1989, Nguyễn Văn L, sinh ngày 25/11/1994 và Nguyễn Viết N, sinh ngày  24/4/2001. Các con chung của vợ chồng chị đều đã tr ưởng thành, có cuộc sống gia đình riêng nên Toà án không phải giải quyết.

+ Về tài sản chung, nợ chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Tại bản đơn trình bày và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, bị đơn anh Nguyễn Văn N (tức Phùng Văn N)trình  bày: Về điều kiện và thời gian kết hôn đúng nh ư chị Đ đã trình bày. Sau khi kết hôn, vợ chồng sinh sống ở địa ph ương một vài năm thì chuyển vào tỉnh Gia Lai làm ăn, vợ chồng chung sống hạnh phúc khoảng hơn 20 năm thì phát sinh nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng không hợp nhau trong cách sống, sinh hoạt, mỗi ng ười một quan điểm trái ng ược nhau, vợ chồng không tìm đ ược tiếng nói chung nên th ường xuyên xảy ra cãi lộn nhau. Do mâu thuẫn vợ chồng quá lớn nên từ tháng 06/2021, chị Đ đã bỏ về quê tại xã Q sinh sống, còn anh vẫn làm ăn sinh sống tại tỉnh Gia Lai, vợ chồng ly thân, không còn quan tâm gì đến nhau. Nay anh xác định tình cảm vợ chồng không còn, chị Đ làm đơn xin ly hôn, anh nhất trí để giải thoát cho nhau khỏi sự ràng buộc.

+ Về con chung: Vợ chồng có ba con chung nh ư chị Đ đã trình bày là đúng, các con chung của vợ chồng đều đã tr ưởng thành, có cuộc sống, gia đình riêng nên Toà án không phải giải quyết.

+ Về tài sản chung, nợ chung: anh N không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại đơn trình bày và đơn đề nghị giải quyết vắng mặt, anh N xác định tình cảm vợ chồng không còn, không thể đoàn tụ đ ược, do ở xa, công việc bận, anh N xin từ chối hoà giải và đề nghị Toà án giải quyết vắng mặt.

Tòa án tiến hành làm việc với lãnh đạo UBND xã Q, cán bộ t ư pháp xã Q và  Tr ưởng thôn A, xã Q đ ược cung cấp: Anh N và chị Đ kết hôn với nhau trên cơ sở  đ ược tự do tìm hiểu, tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã năm 1989. Tại sổ đăng ký và trích lục kết hôn thể hiện Phùng Thị Đ, sinh năm 1970 và anh Phùng Văn N, sinh năm 1968. Tuy nhiên, tại chứng minh nhân dân, sổ hộ khẩu gia đình, giấy khai sinh của các con ghi là Phùng Thị Đ, sinh năm 1972 và chồng là Nguyễn Văn N, sinh năm 1969 là có khác nhau về năm sinh của anh chị và sai họ của anh N. Nguyên nhân của sự việc trên là do thời điểm đi đăng ký kết hôn anh chị nhớ không chính xác, cán bộ đăng ký cũng không kiểm tra các giấy tờ tùy thân nên đã ghi sai năm sinh của anh chị và sai họ của anh N. Tuy nhiên, địa ph ương xác định chị Phùng Thị Đ, sinh năm 1970 trong giấy kết hôn và chị Phùng Thị Đ, sinh năm  1972 trong chứng minh nhân dân, anh Phùng Văn N, sinh năm 1968 trong giấy đăng ký kết hôn với anh Nguyễn Văn N, sinh năm 1969 trong chứng minh nhân dân đều là một ng ười. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống ở địa ph ương một thời   gian thì chuyển vào tỉnh Gia Lai làm ăn, sinh sống. Do anh chị không chung sống ở địa ph ương nhiều năm nên mâu thuẫn vợ chồng địa ph ương không nắm bắt đ ược, chỉ biết từ tháng 6/2021, chị Đ về địa ph ương sinh sống, còn anh N không về ở cùng. Nay chị Đ xin ly hôn anh N, đề nghị Toà án căn cứ đơn của chị Đ và ý kiến của anh N để giải quyết theo quy định của pháp luật cho các bên sớm ổn định cuộc  sống.

Tại phiên toà, chị Đ vẫn giữ nguyên quan điểm nh ư đã trình bày.

Đại diện VKSND huyện Tứ Kỳ tham gia phiên toà phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Th ư ký phiên tòa và của những ng ười tham gia tố tụng đến tr ước thời điểm HĐXX nghị án và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình; Điều 227, Điều 228; Điều 147 BLTTDS; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-  2016 của Uỷ ban Th ường vụ Quốc hội về ... án phí và lệ phí Toà án. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, xử cho chị Phùng Thị Đ đ ược ly hôn anh Nguyễn Văn N (tức Phùng Văn N); Về con chung, tài sản chung không xem xét, giải quyết. Chị Phùng Thị Đ phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đ ược thẩm tra tại phiên  toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Chị Đ, anh N có văn bản thỏa thuận yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Tứ Kỳ là nơi c ư trú của nguyên đơn giải quyết vụ án Hôn nhân gia đình. Vì vậy, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tứ Kỳ theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 39 BLTTDS. Bị đơn anh Nguyễn Văn N đã  đ ược Toà án triệu tập đến tham gia phiên toà hợp lệ và đã có đơn đề nghị Toà án giải quyết vắng mặt. Căn cứ khoản 1 Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Toà án xét xử vắng mặt anh N.

[2] Về hôn nhân: Chị Phùng Thị Đ và anh Nguyễn Văn N (tức Phùng Văn N) kết hôn trên cơ sở đ ược tự do tìm hiểu, tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Q, huyện Tứ Kỳ ngày 25/6/1989. Mặc dù có sự sai sót về năm sinh của chị Đ, anh N và sai họ của anh N so với các giấy tờ tùy thân nh ư chứng minh nhân dân, sổ hộ khẩu gia đình. Tuy nhiên chính anh N, chị Đ và chính quyền địa ph ương xã Q đã thừa nhận và xác định nguyên nhân của sai sót trên là do không kiểm tra kỹ giấy tờ tùy thân và dù chị Đ có năm sinh khác so với chứng minh, anh N có năm sinh và họ khác so với chứng minh nhân dân nh ưng đều là một ng ười và là vợ chồng của nhau. Cho đến nay, cả anh N, chị Đ không có ý kiến gì về thời điểm kết hôn ch ưa đủ tuổi, do đó có căn cứ xác định quan hệ hôn nhân giữa anh N, chị Đ là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hoà thuận, hạnh phúc  đ ược hơn 20 năm thì xảy ra nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân là do không hợp nhau trong cách sống, sinh hoạt, bất đồng quan điểm. Từ tháng 6/2021, chị Đ đã tự bỏ về quê tại thôn A, xã Q sinh sống, anh N vẫn làm ăn, sinh sống tại tỉnh Gia Lai và xác định tình cảm vợ chồng không còn, chị Đ xin ly hôn, anh N nhất trí. Nh ư vậy,   đã có đủ cơ sở kết luận tình trạng hôn nhân giữa chị Đ, anh N đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt đ ược, cần chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, xử cho chị Đđ ược ly hôn với anh N là phù hợp với Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình để hai bên sớm ổn định cuộc sống.

[3] Về con chung: Vợ chồng có ba con chung là Nguyễn Văn M, sinh ngày  19/5/1989, Nguyễn Văn L, sinh ngày 25/11/1994 và Nguyễn Viết N, sinh ngày  24/4/2001. Các con chung của vợ chồng đều đã tr ưởng thành, có cuộc sống gia đình riêng nên Toà án không phải giải quyết.

[4] Về tài sản chung, vay nợ chung: Chị Đ, anh N không yêu cầu nên Toà án không giải quyết.

[5] Về án phí: Chị Phùng Thị Đ khởi kiện vụ án hôn nhân gia đình nên phải  chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Th ường vụ Quốc hội về ...án phí và lệ phí Toà án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51, Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình; điểm b khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 227, Điều 228; khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày  30-12-2016 của Uỷ ban Th ường vụ Quốc hội về ... án phí và lệ phí Toà án.

1. Về hôn nhân: Xử cho chị Phùng Thị Đ đ ược ly hôn anh Nguyễn Văn N  (tức Phùng Văn N).

2. Về án phí: Chị Phùng Thị Đ phải chịu 300.000đồng án phí dân sự sơ thẩm ly hôn, đ ược đối trừ 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tứ Kỳ, theo biên lai số AA/2020/0004371 ngày 07/01/2022.

3. Về quyền kháng cáo: Chị Đ đ ược quyền kháng cáo bản án trong hạn 15  ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, anh N đ ược quyền kháng cáo bản án trong hạn  15 ngày kể từ ngày nhận đ ược bản án hoặc bản án đ ược niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

170
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 07/2022/HNGĐ-ST 

Số hiệu:07/2022/HNGĐ-ST 
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tứ Kỳ - Hải Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về