TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH LẠNG SƠN
BẢN ÁN 07/2021/HNGĐ-PT NGÀY 20/09/2021 VỀ LY HÔN
Ngày 20 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 11/2021/TLPT-HNGĐ, ngày 24/8/2021 về Ly hôn.
Do bản án Hôn nhân gia đình sơ thẩm số 16/2021/HNGĐ-ST ngày 23-7- 2021 của Tòa án nhân dân huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 12/2021/QĐ-PT ngày 05-9-2021; giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Triệu Đức M, sinh năm 1957; cư trú tại: Thôn Làng D xã C, huyện H, tỉnh Lạng Sơn; có mặt.
- Bị đơn: Bà Lương Thị V, sinh năm 1959; cư trú tại: Thôn Làng D, xã C, huyện H, tỉnh Lạng Sơn; có mặt.
- Người kháng cáo: Bà Lương Thị V là bị đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, ý kiến trình bày của các đương sự và bản án Hôn nhân gia đình sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ông Triệu Đức Mạ và bà Lương Thị V kết hôn với nhau năm 1978, trước khi kết hôn ông bà không được tìm hiểu do hai gia đình mai mối, nhưng ông bà vẫn đồng ý kết hôn với nhau, được hai bên gia đình tổ chức đám cưới theo phong tục tập quán vào ngày 15/01/1978. Đến năm 2009, ông bà mới đi đăng kí kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã C, huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Sau khi kết hôn ông bà chung sống hòa thuận, đôi khi cũng có những mâu thuẫn nhỏ do vợ chồng bất đồng quan điểm sống nhưng ông vẫn cố gắng kìm chế, nhẫn nhịn. Sau đó, vợ chồng ông thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, xô xát, cãi chửi nhau, nguyên nhân do ông, bà bất đồng quan điểm về cách sống. Từ năm 2019 đến nay, ông và bà V đã sống ly thân về tình cảm không ai nói chuyện với ai, không ăn uống cùng nhau, không quan tâm, chăm sóc lẫn nhau nhưng vẫn sống chung một nhà, nhà ông bà có 09 gian; ông ở 04 gian, bà V và các con ở 05 gian.
Từ khi sống ly thân, bà V đã tự ý quản lý hết các tài sản trong gia đình, không cho ông quản lý, sử dụng và luôn tìm cớ mắng chửi, lăng mạ ông. Nay ông xác định tình cảm vợ chồng không còn tình cảm, không thể tiếp tục chung sống với nhau được nữa do đó ông M xin được ly hôn với bà V.
Về con chung: Vợ chồng có 04 người con là anh Triệu Đình H, sinh năm 1981; anh Triệu Văn Đ, sinh năm 1984; chị Triệu Thị H, sinh năm 1989; anh Triệu Đức H, sinh năm 1992. Hiện nay các con đều đã trưởng thành nên ông không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về tài sản chung: Vợ chồng tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có.
Bà Lương Thị V xác nhận bà và ông M kết hôn với nhau năm 1978, ông bà được đi đăng ký kết hôn với nhau hai lần tại UBND xã C, huyện H, tỉnh Lạng Sơn (lần 1 đăng ký vào năm 1978 không nhớ ngày tháng, do giấy đăng ký bị thất lạc. Năm 2009 bà và ông M lại đi đăng ký kết hôn lại lần 2).
Trước khi kết hôn bà và ông M không được tìm hiểu mà do hai bên gia đình mai mối, xắp xếp nhưng bà vẫn đồng ý kết hôn với ông M. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc, đến năm 2010, vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, ông M thường xuyên bỏ bê gia đình, có quan hệ ngoại tình với nhiều người phụ nữ khác, đến năm 2013 ông M mới thay đổi quay về chung sống cùng với bà và các con, đến năm 2017, ông M lại tiếp tục có quan hệ ngoại tình với người khác, bỏ đi khỏi nhà, không chăm lo kinh tế gia đình, không giúp đỡ vợ con, nhưng vì gia đình, các con bà vẫn bỏ qua cho ông, bà khẳng định do ông M có quan hệ tình cảm với người khác nên mới kiên quyết xin ly hôn với bà. Bà không không đồng ý ly hôn vì bà vẫn còn tình cảm với ông M, hơn nữa ông bà đã già rồi, ông M muốn ra ngoài ở với ai bà cũng không ngăn cản. Hiện nay gia đình ông bà đã có con, có cháu nên bà không đồng ý hôn.
Về con chung: Bà xác nhận ông bà có 04 con chung họ tên, năm sinh như ông Mạ trình bày là đúng. Hiện nay, các con đều đã trưởng thành nên không yêu cầu Tòa án giải quyết Về tài sản chung: Ông bà tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có.
Với nội dung vụ án như trên: Tại bản án dân sự sơ thẩm số 16/2021/HNGĐ-ST ngày 23-7-2021 của Toà án nhân dân huyện H, tỉnh Lạng Sơn đã căn cứ: Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự, Các Điều 51, 56, 57, 58 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:
1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của ông Triệu Đức M, xử cho nguyên đơn ông Triệu Đức M được ly hôn với bị đơn bà Lương Thị V.
2. Về con chung: Có 04 con chung là Triệu Đình H, sinh năm 1981; Triệu Văn Đ, sinh năm 1984; Triệu Thị H, sinh năm 1989; Triệu Đức H, sinh năm 1992; các con đều đã trưởng thành nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
3. Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
4. Về nợ chung: Không có.
Ngoài ra Bản án sơ thẩm còn tuyên về nghĩa vụ chịu án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.
Trong hạn luật định ngày 02/8/2021 bà Lương Thị V kháng cáo bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện H cụ thể như sau: Đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét sửa bản án sơ thẩm số 16/2021/HNGĐ-ST ngày 23-7-2021 của Toà án nhân dân huyện H, tỉnh Lạng Sơn, cụ thể không chấp nhận yêu cầu ly hôn của ông Triệu Đức M để vợ chồng trở về đoàn tụ gia đình.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bà Lương Thị V giữ nguyên yêu cầu kháng cáo yêu cầu sửa bản án sơ thẩm, không chấp nhận yêu cầu ly hôn của ông Triệu Đức M để vợ chồng trở về đoàn tụ gia đình với lý do tuổi đã cao muốn chung sống cùng một gia đình và các con cũng không muốn bố mẹ ly hôn.
Ông Triệu Đức M đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm giữ nguyên bản án sơ thẩm Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn:
Việc tuân theo pháp luật của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn phúc thẩm:
- Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa: Thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Việc tuân theo pháp luật của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn, bị đơn, chấp hành đúng quy định tại các Điều 70, 71, 72 và Điều 234 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Quan điểm về việc giải quyết đối với nội dung vụ án có kháng cáo.
- Về tính có căn cứ và hợp pháp của kháng cáo: Bà Lương Thị V kháng cáo trong thời hạn luật định nên kháng cáo hợp lệ.
- Về nội dung kháng cáo: Ngày 02/8/2021 bà Lương Thị V kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm, không chấp nhận yêu cầu ly hôn của ông Triệu Đức M, để vợ chồng trở về đoàn tụ gia đình.
- Về nội dung vụ án: Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Triệu Đức M, xử cho ông Mạ được ly hôn với bà Lương Thị V là có căn cứ. Về tình cảm vợ chồng giữa ông M và bà V không còn, mâu thuẫn trầm trọng, vợ chồng đã sống ly thân thời gian dài, không còn quan tâm đến nhau nữa. Từ những phân tích trên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bà Lương Thị V, giữ nguyên bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 16/2021/HNGĐ-ST ngày 23-7-2021 của Toà án nhân dân huyện H, tỉnh Lạng Sơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[2] Về quan hệ hôn nhân: Ông Triệu Đức M và bà Lương Thị V kết hôn trên cơ sở tự nguyện mặc dù không được tìm hiểu do hai gia đình mai mối nhưng ông bà đều đồng ý kết hôn không có ai ép buộc nên được gia đình hai bên tổ chức cưới hỏi theo phong tục tập quán. Có đăng ký kết hôn từ năm 1978, sau kết hôn bị thất lạc, ngày 27/7/2009 ông bà lại đưa nhau nhau đi đăng ký kết hôn. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hòa thuận, do vợ chồng bất đồng quan điểm sống nên vợ chồng thường xuyên xảy ra xích mích, xảy ra cãi cọ. Năm 2019 do bất đồng quan điểm sống nên vợ chồng đã sống ly thân mặc dù vẫn ở chung nhà nhưng không ăn chung không quan tâm chăm sóc nhau.
[3] Quá trình giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm, Tòa án nhân dân huyện Hữu Lũng đã tiến hành xác minh về mâu thuẫn vợ chồng giữa ông Triệu Đức M và bà Lương Thị V tại thôn Làng D, xã C, huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Đại diện thôn Làng D không nắm được vợ chồng ông M, bà V có mâu thuẫn và sống ly thân hay không, chỉ biết ông M thời gian gần đây ông Mạ ở hẳn trên ao cá cách nhà ông khoảng 800m, không ở nhà, anh Triệu Đức H con trai ông M, bà V cũng cho biết bố mẹ anh đôi khi có mâu thuẫn, mắng chửi nhau, nguyên nhân do bố anh có quan hệ ngoại tình với người phụ nữ khác, từ nhiều năm nay bố anh không hề chăm lo kinh tế cho gia đình, các con đã khuyên nhủ rất nhiều nhưng ông M không thay đổi. Hội đồng xét xử xét thấy: Về tình cảm vợ chồng giữa ông Triệu Đức M và bà Lương Thị V đã mâu thuẫn trầm trọng, không có khả năng hàn gắn, do bất đồng quan điểm sống vợ chồng bà không có tiếng nói nói chung, vợ chồng sống ly thân trong thời gian dài, tình cảm vợ chồng rạn nứt, không có khả năng hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó Tòa án cấp sơ thẩm xử cho ông bà ly hôn là có căn cứ pháp luật.
[4] Từ những phân tích trên thấy rằng, yêu cầu kháng cáo của bà Lương Thị V không có căn cứ chấp nhận, giữ nguyên bản án sơ thẩm thẩm số 16/2021/HNGĐ-ST ngày 23/7/2021 của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Lạng Sơn.
[5] Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[6] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do đó cấp phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị đơn bà Lương Thị V vì không có căn cứ, giữ nguyên bản án sơ thẩm; tuy nhiên bà Vlà người cao tuổi có đơn xin miễn án phí phí dân sự phúc thẩm. Hội đồng xét xử miễn án phí phúc thẩm cho bà Lương Thị V Nhận định trên cũng phù hợp với ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 148; khoản 1 Điều 308; Điều 313 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Căn cứ vào Điều 148 của Bộ luật tố tụng dân sự, điểm a khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án;
1. Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn bà Lương Thị V vì không có căn cứ; Giữ nguyên bản án sơ thẩm số 16/2017/HNGĐ-ST ngày 23/7/2021 của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Lạng Sơn;
2. Về án phí phúc thẩm: Bà Lương Thị V là người cao tuổi được miễn án phí phúc thẩm theo quy định.
3. Các phần khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án
Bản án về ly hôn số 07/2021/HNGĐ-PT
Số hiệu: | 07/2021/HNGĐ-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Lạng Sơn |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 20/09/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về