Bản án về ly hôn số 04/2024/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIẾN XƯƠNG, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 04/2024/HNGĐ-ST NGÀY 26/01/2024 VỀ LY HÔN

Ngày 26 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 157/2023/TLST - HNGĐ ngày 09 tháng 11 năm 2023 về “ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 03/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày 04/01/2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 03/2024/QĐ-HPT ngày 19/01/2024 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Nguyễn Thế M, sinh năm 1982;

- Bị đơn: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1982;

Địa chỉ: thôn S, xã B, huyện K, tỉnh Thái Bình Anh M có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, chị H vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện và trong quá trình xét xử, nguyên đơn anh Nguyễn Thế M trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: anh M và chị H tự nguyện đăng ký kết hôn tại UBND xã Bình Định huyện Kiến Xương tỉnh Thái Bình vào ngày 06/3/2004. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc tại thôn Sơn Trung, xã Bình Định, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Vợ chồng chung sống với nhau 15 năm nhưng do chị H bị hiếm muộn, chạy chữa khắp nơi, kinh tế tốn kém mà vẫn không có kết quả. Cuộc sống gia đình lâm vào cảnh nợ nần, buộc anh M phải đi làm ăn xa để lấy tiền trả nợ. Sau khi anh M đi làm ăn xa từ tháng 6/2019 đến tháng 3/2022, anh M vẫn tH xuyên gửi tiền về để chị H trả nợ. Từ tháng 3 năm 2022, anh M không thể liên lạc được với chị H và gia đình chị H cho anh M biết là chị H đã tự động bỏ đi mặc dù hai vợ chồng anh không có mâu thuẫn hay xích mích gì. Từ đó đến nay anh M đã nhiều lần tìm kiếm và liên lạc để tìm chị H về đoàn tụ, tiếp tục cuộc sống gia đình nhưng chị H cố tình tránh mặt, chặn số điện thoại của anh M. Gia đình chị H thông tin cho anh M là chị H bảo anh M làm đơn ly hôn, chứ chị H không về chung sống cùng anh M nữa. Nay anh M thấy không thể tiếp tục quan hệ vợ chồng với chị H được nữa nên đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn chị H.

Về quan hệ con chung: không có.

Về quan hệ tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn là chị Nguyễn Thị H không có mặt tại địa phương nên Tòa án không lấy được lời khai.

Qua xác minh tại UBND xã Bình Định huyện Kiến Xương tỉnh Thái Bình ngày 28/12/2023 thể hiện: anh M và chị H tự nguyện đăng ký kết hôn tại tại UBND xã Bình Định huyện Kiến Xương tỉnh Thái Bình. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại gia đình anh M ở xã Bình Định huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Đến tháng 8/2022 thì chị H không chung sống cùng anh M nữa và đi lao động tự do ở tỉnh ngoài. Nguyên nhân chị H không chung sống cùng anh M nữa là do vợ chồng lấy nhau đã lâu mà không có con chung. Nay anh M xin ly hôn, quan điểm của địa phương là đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Vợ chồng anh M, chị H không có con chung. Vợ chồng có tài sản chung hay không địa phương không biết.

Tại biên bản ghi lời khai ông Nguyễn Văn T, nơi cư trú: thôn S, xã B, huyện K, tỉnh Thái Bình (bố chị H) trình bày: Anh M và chị H đăng ký kết hôn tại UBND xã Bình Định huyện Kiến Xương tỉnh Thái Bình và chung sống cùng nhau tại gia đình anh M. Tuy nhiên chị H không còn chung sống cùng anh M từ tháng 8/ 2022 đến nay do vợ chồng lấy nhau đã lâu mà không có con chung. Hiện nay chị H đang đi lao động tự do tại tỉnh ngoài. Nay anh M làm thủ tục ly hôn, ông Thấm đã thông tin về việc anh M xin ly hôn chị H cho chị H, chị H nói với ông là chị H đồng ý ly hôn và đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Hiện tại chị H và anh M không có con chung.

Tòa án đã gửi Thông báo thụ lý vụ án; bản sao đơn khởi kiện và tài liệu chứng cứ do anh M cung cấp; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Quyết định đưa vụ án ra xét xử cho chị H nhưng chị H vắng mặt.

Tại phiên toà hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình có quan điểm cho rằng Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án. Nguyên đơn đã chấp hành đúng pháp luật trong quá trình tham gia tố tụng. Bị đơn không tham gia tố tụng là không thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều 70, 72 Bộ luật tố tụng dân sự.

Về ý kiến giải quyết vụ án, đại diện Viện kiểm sát đề nghị:

Về quan hệ hôn nhân: Áp dụng Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình 2014, chấp nhận cho anh M được ly hôn chị H.

Về quan hệ con chung: Không có Về quan hệ tài sản chung, nợ chung: Không giải quyết.

Về án phí: Anh M phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Xét thấy, Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Quyết định đưa vụ án ra xét xử cho bị đơn nhưng bị đơn vẫn vắng mặt. Nguyên đơn có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Vì vậy, Toà án tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 227, khoản 1, 3 Điều 228 và Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành thu thập tài liệu, chứng cứ, vì vậy Viện kiểm sát tham gia phiên toà là đúng với quy định tại Điều 21 Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Xét thấy, anh M và chị H tự nguyện đăng ký kết hôn tại UBND xã Bình Định huyện Kiến Xương tỉnh Thái Bình là hôn nhân hợp pháp. Vợ chồng kết hôn và chung sống đã lâu mà không có con chung, vợ chồng không còn quan tâm đến nhau và đã ly thân từ tháng 8/2022 đến nay. Tòa án đã triệu tập để hòa giải đoàn tụ vợ chồng nhưng chị H vắng mặt và anh M kiên quyết ly hôn. Điều này chứng tỏ đời sống chung của vợ chồng thực tế không còn tồn tại, mục đích của hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận yêu cầu của anh M, quan điểm của Kiểm sát viên tại phiên tòa, xử cho anh M được ly hôn chị H là phù hợp với Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[4] Về quan hệ con chung: Không có [5] Về quan hệ tài sản: Anh M không đề nghị Tòa án giải quyết, Tòa án không ghi được lời khai của chị H nên chưa có cơ sở xem xét, vì vậy Tòa án không giải quyết về quan hệ tài sản chung.

[6] Về án phí: Anh M phải chịu toàn bộ án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 24, điểm a khoản 5 và điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết 326 của Ủy ban thường vụ quốc hội.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình 2014; khoản 1 Điều 227, khoản 1, khoản 3 Điều 228 và Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự 2015; điểm a khoản 1 Điều 24, điểm a khoản 5 và điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho anh Nguyễn Thế M được ly hôn chị Nguyễn Thị H.

2. Về quan hệ con chung: Không có.

3. Về quan hệ tài sản: Không giải quyết.

4.Về án phí: Anh Nguyễn Thế M phải chịu 300.000đồng án phí ly hôn sơ thẩm. Chuyển số tiền tạm ứng án phí anh M đã nộp là 300.000 đồng tại biên lai thu số 0002022 ngày 09/11/2023 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình sang thi hành án phí.

5.Về quyển kháng cáo: Anh Nguyễn Thế M và chị Nguyễn Thị H có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

17
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 04/2024/HNGĐ-ST

Số hiệu:04/2024/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kiến Xương - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về