Bản án về ly hôn số 01/2024/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SƠN DƯƠNG, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 01/2024/HNGĐ-ST NGÀY 03/01/2024 VỀ LY HÔN

Ngày 03/01/2024, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện S mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 428/2023/TLST-HNGĐ ngày 20/10/2023 về việc ly hôn, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 112/2023/QĐST-HNGĐ, ngày 04/12/2023; quyết định hoãn phiên tòa số 83/2023/QĐST-HNGĐ ngày 18/12/2023 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Ma Thị D, sinh năm 1971; địa chỉ: tổ dân phố B, thị trấn S, huyện S, tỉnh T (có đơn xin xét xử vắng mặt).

- Bị đơn: Ông Nguyễn Xuân H, sinh năm 1969; địa chỉ: Khu A, xã N, huyện P, tỉnh P (vắng mặt không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Ma Thị D trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà và ông Nguyễn Xuân H đăng ký kết hôn ngày 25/6/1999 tại UBND thị trấn S, huyện S, tỉnh T trên cơ sở tự do tìm hiểu, tự nguyện đến với nhau, không bị ai ép buộc; được hai bên gia đình tổ chức cưới hỏi theo phong tục địa phương. Sau khi kết hôn, vợ chồng ông bà chung sống với nhau tại tổ dân phố B, thị trấn S, huyện S, tỉnh T. Quá trình vợ chồng chung sống thường hay mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, không có tiếng nói chung. Đến năm 2017 thì ông H bỏ nhà ra đi không thấy về nữa, để lại bà và hai con còn nhỏ. Ông bà đã ly thân từ năm 2017 tới nay, không quan tâm chăm sóc gì tới nhau nữa. Hiện nay, ông H đang ở Khu A, xã N, huyện P, tỉnh P. Bà đã nhiều lần nói chuyện với ông H về việc về chung sống với nhau cùng xây dựng gia đình, chăm lo cho con cái nhưng ông H không về nữa. Nay, bà nhận thấy tình cảm vợ chồng đã hết, không thể tiếp tục quan hệ hôn nhân này được nữa. Ông H và bà cùng thống nhất và làm giấy thoả thuận chọn Toà án nhân dân huyện S, tỉnh T là Toà án giải quyết việc ly hôn. Vì vậy, bà đề nghị Tòa án nhân dân huyện S, tỉnh T giải quyết cho bà được ly hôn với ông Nguyễn Xuân H.

Về con chung: Bà và ông H sinh được 02 người con là cháu Nguyễn Ngọc H1, sinh ngày 16/01/2000 và cháu Nguyễn Thị T, sinh ngày 17/7/2004. Cháu H1 bị bại não bẩm sinh, cháu đã mất vào ngày 01/01/2022. Cháu T hiện đã trưởng thành và đi làm, có thu nhập. Do đó, bà không đề nghị Toà án giải quyết về con chung.

Về tài sản chung, công nợ chung: Ông bà tự thoả thuận, bà không đề nghị Tòa án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã thực hiện đầy đủ thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật và tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng ông Nguyễn Xuân H không hợp tác làm việc, ông H có khai báo nhưng không ký biên bản lấy lời khai, không ký nhận các văn bản tố tụng, không thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình, không có văn bản trình bày ý kiến. Mặc dù trước đó ông H và bà D cùng thống nhất lựa chọn Toà án nhân dân huyện S giải quyết vụ án. Do đó Tòa án không tiến hành hòa giải vụ án được.

Ông H có khai báo trước Toà án và đại diện chính quyền địa phương như sau: Về quan hệ hôn nhân: Ông và bà D trước khi kết hôn có được tự do tìm hiểu, tự nguyện đến với nhau, được hai bên gia đình tổ chức cưới hỏi theo phong tục địa phương và có đăng ký kết hôn năm 1999 tại UBND thị trấn S, huyện S, tỉnh T. Sau khi kết hôn, ông bà chung sống tại tổ dân phố B, thị trấn S, huyện S, tỉnh T. Quá trình vợ chồng chung sống bình thường đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân là do bất đồng quan điểm, không có tiếng nói chung. Ông bà đã ly thân từ năm 2018 tới nay, không quan tâm chăm sóc gì tới nhau nữa. Ông về ở tại Khu A, xã N, huyện P, tỉnh P, còn bà D vẫn sinh sống ở tổ dân phố B, thị trấn S. Nay, bà D xin ly hôn với ông thì ông nhất trí.

Về con chung: Ông và bà D sinh được 02 người con là cháu Nguyễn Ngọc H1, sinh ngày 16/01/2000 và cháu Nguyễn Thị T, sinh ngày 17/7/2004. Cháu H1 bị bại não bẩm sinh, cháu đã mất vào ngày 01/01/2022. Cháu T hiện đã trưởng thành và đi làm. Do đó, ông không đề nghị Toà án giải quyết về con chung.

Về tài sản chung, công nợ chung: Bà D phải tự giải quyết tại Toà án, còn ông không làm đơn đề nghị Toà án giải quyết về tài sản, đất đai, công nợ chung giữa hai vợ chồng.

Tại phiên toà đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện S phát biểu quan điểm: Toà án đã thụ lý, giải quyết vụ án ly hôn sơ thẩm về việc ly hôn là đúng thẩm quyền, đúng nội dung tranh chấp. Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Thẩm phán và Hội đồng xét xử (HĐXX) đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự; quyền và nghĩa vụ của đương sự được đảm bảo. Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ chấp nhận. Đề nghị HĐXX áp dụng các Điều 28, 39, 147, 227, 228, 235, 238, 266, 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 56, 57 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

- Về quan hệ hôn nhân: Xử cho bà Ma Thị D được ly hôn với ông Nguyễn Xuân H.

- Về án phí: Bà Ma Thị D phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

- Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, HĐXX nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp:

Bà Ma Thị D và ông Nguyễn Xuân H kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày 25/6/1999 tại UBND thị trấn S, huyện S, tỉnh T, vì vậy đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Bà D khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn, do vậy quan hệ pháp luật xác định là ly hôn theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về thẩm quyền giải quyết của Tòa án:

Ông Nguyễn Xuân H có hộ khẩu thường trú tại Khu A, xã N, huyện P, tỉnh P. Bà Ma Thị D có hộ khẩu thường trú tại tổ dân phố B, thị trấn S, huyện S, tỉnh T. Bà D và ông H có lập biên bản thoả thuận về việc lựa chọn Toà án nhân dân huyện S, tỉnh T là Toà án nơi cư trú của nguyên đơn (bà D) để giải quyết vụ án ly hôn.

Vì vậy, căn cứ điểm b khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án là Tòa án nhân dân huyện S.

[3] Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã gửi thông báo thụ lý vụ án và nhiều lần triệu tập ông H đến Tòa án để giải quyết, ông H đã nhận được thông báo thụ lý vụ án, giấy triệu tập nhưng không đến Toà án làm việc, đây được xem là trường hợp người bị kiện cố tình trốn tránh nghĩa vụ. Như vậy, ông H đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt. Do đó, HĐXX căn cứ khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt bị đơn.

[4] Về yêu cầu ly hôn của bà Ma Thị D, HĐXX nhận định:

Bà Ma Thị D và ông Nguyễn Xuân H kết hôn với nhau trên cơ sở tự do tìm hiểu, được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn ngày 25/6/1999 tại UBND thị trấn S, huyện S, tỉnh T là hôn nhân hợp pháp. Tuy nhiên, do cả hai không cùng chung sống, không quan tâm đến nhau và đã ly thân từ năm 2018 nên không thể tồn tại một gia đình hạnh phúc, tiến bộ. Ông H cũng nhất trí ly hôn với bà D nhưng không có văn bản thể hiện ý kiến, không ký biên bản lấy lời khai đương sự.

Từ những căn cứ trên xác định, tình trạng hôn nhân giữa bà D và ông H đã thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, yêu cầu xin ly hôn của bà D là chính đáng và có căn cứ phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

Vì vậy, cần chấp nhận yêu cầu của bà Ma Thị D là xử cho bà D được ly hôn với ông Nguyễn Xuân H.

[5] Về con chung: Bà Ma Thị D và ông Nguyễn Xuân H sinh được 02 người con là cháu Nguyễn Ngọc H1, sinh ngày 16/01/2000 và cháu Nguyễn Thị T, sinh ngày 17/7/2004. Cháu H1 bị bại não bẩm sinh, cháu đã chết vào ngày 01/01/2022. Cháu T hiện đã trưởng thành và đi làm, có thu nhập. Do đó, ông bà không đề nghị Toà án giải quyết về con chung nên HĐXX không xem xét.

[6] Về tài sản chung, công nợ chung:

Bà D có quan điểm: Ông bà tự thoả thuận, bà không đề nghị Tòa án giải quyết. Ông H có quan điểm: Bà D phải tự giải quyết tại Toà án, còn ông không làm đơn đề nghị Toà án giải quyết về tài sản, đất đai, công nợ chung giữa hai vợ chồng. Do đó, HĐXX không xem xét.

[7] Về án phí: Bà D phải nộp toàn bộ án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Ông H không phải nộp án phí.

[8] Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

                                                                     QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 28, 39, 147, 228, 235, 238, 266, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 56, 57 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Ma Thị D về việc ly hôn đối với ông Nguyễn Xuân H.

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Ma Thị D được ly hôn với ông Nguyễn Xuân H.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Ma Thị D phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo giấy thu tiền 000000731817 ngày 20/10/2023 ký bởi Công ty cổ phần thanh toán quốc gia và biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0001153 ngày 24 tháng 10 năm 2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện S, tỉnh T. Ông Nguyễn Xuân H không phải nộp án phí.

3. Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

26
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 01/2024/HNGĐ-ST

Số hiệu:01/2024/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sơn Dương - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 03/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về