TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẦN VĂN THỜI, TỈNH CÀ MAU
BẢN ÁN 87/2022/HNGĐ-ST NGÀY 05/04/2022 VỀ LY HÔN, NUÔI CON
Ngày 05 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 401/2021/TLST-HNGĐ ngày 29 tháng 10 năm 2021 về việc “Ly hôn, nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 59/2022/QĐXXST–HNGĐ ngày 28 tháng 02 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 51/2022/QĐST-HNGĐ ngày 16/3/2022 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Đoàn Thị H, sinh năm: 1980 (có mặt).
Địa chỉ: hóm 9, thị t, huyện T, tỉnh C ..
Bị đơn: Ông Nguyễn Ngọc V, sinh năm: 1982 (vắng mặt) Địa chỉ: hóm 9, thị t, huyện T, tỉnh C ..
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện ngày 30/6/2021, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn bà Đoàn Thị H trình bày: Bà và ông Nguyễn Ngọc V tự nguyện chung sống và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn Sông Đốc, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau vào ngày 17/01/2002. Quá trình chung sống, phát sinh mâu thuẫn do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm, vợ chồng ly thân 05 năm nay. Bà xác định không còn tình cảm nên xin ly hôn với ông V.
Về con chung: Có 02 con là cháu Nguyễn Ngọc Quốc, sinh ngày 01/12/2002 (nam), cháu Nguyễn Ngọc hánh, sinh ngày 09/8/2014 (nữ), hiện nay hai cháu đang sống với bà. Khi ly hôn, cháu Quốc đã trưởng thành nên không yêu cầu Tòa án giải quyết, yêu cầu được nuôi cháu Khánh, không yêu cầu ông V cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung, nợ chung: Bà H xác định không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tòa án đã triệu tập hợp lệ ông Nguyễn Ngọc V đến Tòa án để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, các phiên tòa xét xử nhưng ông V vắng mặt không có lý do, không gửi văn bản trình bày ý kiến trước yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa hôm nay, bị đơn vắng mặt nên không ghi nhận được ý kiến.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Ông Nguyễn Ngọc V đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không rõ lý do. Căn cứ khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt ông V là đúng quy định. Bà H yêu cầu được ly hôn nên xác định là tranh chấp ly hôn theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà H và ông V xác lập quan hệ vợ chồng trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo đúng quy định của pháp luật nên hôn nhân của ông bà là hợp pháp và được pháp luật bảo vệ. Xét yêu cầu ly hôn của bà H đối với ông V, Hội đồng xét xử thấy rằng: Hôn nhân phải được xây dựng và vun đắp từ hai phía, bằng tình nghĩa, vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau chia sẽ và thực hiện công việc trong gia đình. Nay bà H xác định không còn tình cảm với ông V nên bà không thể tiếp tục duy trì quan hệ hôn nhân với ông V. Tòa án đã tiến hành tống đạt các văn bản tố tụng để ông V tham gia các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, các phiên tòa xét xử nhưng ông V vắng mặt không có lý do, không gửi văn bản trình bày ý kiến trước yêu cầu khởi kiện của bà H. Điều đó chứng tỏ ông V đã không quan tâm đến việc hòa giải hàn gắn đoàn tụ cũng như bỏ mặc tình trạng hôn nhân của mình. Xét thấy, hôn nhân của bà H và ông V đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên ly hôn là giải pháp tốt nhất để cả hai tự ổn định cuộc sống riêng. Vì vậy, xét yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của nguyên đơn là có cơ sở và phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[3] Về con chung: Có 02 con chung là cháu Nguyễn Ngọc Quốc, sinh ngày 01/12/2002 (nam), cháu Nguyễn Ngọc hánh, sinh ngày 09/8/2014 (nữ). Khi ly hôn, cháu Quốc đã trưởng thành nên không đặt ra xem xét. Bà H có yêu cầu trực tiếp nuôi con chung là cháu Nguyễn Ngọc hánh, sinh ngày 09/8/2014. Xét thấy, hiện con chung đang sống chung với bà H. Hơn nữa, cháu Khánh là nữ và có nguyện vọng sống chung với mẹ. Do đó, căn cứ vào khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà H về việc trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung. Ông V có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung mà không ai được cản trở.
Về cấp dưỡng nuôi con: Bà H không yêu cầu nên không đặt ra xem xét.
[4] Về tài sản chung: Bà H xác định không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét. Do không ghi nhận được ý kiến của bị đơn ông Nguyễn Ngọc V, nếu sau này có phát sinh tranh chấp ông V có quyền khởi kiện thành vụ kiện khác. [5] Về nợ chung: hông yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[6] Về án phí: Bà H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân và gia đình theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; khoản 2 Điều 227 và khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự. hoản 1 Điều 56; Điều 58; Điều 81; Điều 82; Điều 83 và Điều 116 Luật hôn nhân và gia đình. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Về quan hệ hôn nhân: Bà Đoàn Thị H được ly hôn với ông Nguyễn Ngọc V. Giấy chứng nhận kết hôn số 06, quyển số 01/2002 do Ủy ban nhân dân thị trấn Sông Đốc, huyện Trần Văn Thời cấp ngày 17/01/2002 không còn hiệu lực.
Về con chung: Giao con chung là Nguyễn Ngọc hánh, sinh ngày 09/8/2014 (nữ) cho bà H trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục đến khi con đủ 18 tuổi.
Ông V có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
Trường hợp lạm dụng việc thăm nom con chung để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nôm, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm con của người không trực tiếp nuôi con.
Trên cơ sở lợi ích của con, theo yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức thì Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con.
Về tài sản chung: hông yêu cầu nên không xem xét.
Về nợ chung: hông yêu cầu nên không xem xét.
2. Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Bà H phải chịu 300.000 đồng. Ngày 29/10/2021 bà H đã dự nộp 300.000 đồng tại biên lai số 0004087 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Trần Văn Thời nay được chuyển thu, bà H đã nộp đủ án phí.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Về quyền kháng cáo: Bà Đoàn Thị H có mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Ông Nguyễn Ngọc V vắng mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ
Bản án về ly hôn, nuôi con số 87/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 87/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Trần Văn Thời - Cà Mau |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 05/04/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về