Bản án về ly hôn, nuôi con số 59/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẦN VĂN THỜI, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 59/2022/HNGĐ-ST NGÀY 21/03/2022 VỀ LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 21 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 436/2021/TLST-HNGĐ ngày 17 tháng 11 năm 2021 về việc “Ly hôn, nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 57/2022/QĐXXST–HNGĐ ngày 28 tháng 02 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 50/2022/QĐST-HNGĐ ngày 14/3/2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị M, sinh năm: 1990 (xin vắng mặt).

Bị đơn:Anh Mã Hồng C, sinh năm: 1983 (vắng mặt).

Cùng địa chỉ: Ấp 19/5, xã KB, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 10/11/2021, quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Nguyễn Thị M trình bày: Chị và anh Mã Hồng C tự nguyện chung sống và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Khánh Bình, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau vào ngày 07/3/2008. Quá trình chung sống, phát sinh mâu thuẫn do tính tình không hợp, anh C hay ghen tuông, cuộc sống không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được. Nay chị xác định không còn tình cảm nên xin ly hôn với anh C.

Về con chung: Có 02 con là Mã Hoàng Thiên Long, sinh ngày 14/01/2009 và Mã Hoàng Thiên Bảo, sinh ngày 24/7/2015. Hiện nay hai cháu đang sống với chị Khi ly hôn, chị M yêu cầu được nuôi cháu Bảo còn cháu Long muốn ở với ai thì người đó nuôi, không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Chị M không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong quá trình giải quyết vụ án chị M có Đơn xin xử vắng mặt, đề nghị Tòa án giải quyết vụ án vắng mặt chị.

Tòa án đã triệu tập hợp lệ anh Mã Hồng C đến Tòa án để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, các phiên tòa xét xử nhưng anh Mã Hồng C vắng mặt không có lý do, không gửi văn bản trình bày ý kiến trước yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, bị đơn vắng mặt nên không ghi nhận được ý kiến

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Chị Nguyễn Thị M có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt; anh Mã Hồng C đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không rõ lý do. Căn cứ khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt chị M, anh C là đúng quy định Chị M yêu cầu được ly hôn nên xác định là tranh chấp ly hôn theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị M và anh C xác lập quan hệ vợ chồng trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo đúng quy định của pháp luật nên hôn nhân của anh chị là hợp pháp và được pháp luật bảo vệ Xét yêu cầu ly hôn của chị M đối với anh C, Hội đồng xét xử thấy rằng: Hôn nhân phải được xây dựng và vun đắp từ hai phía, bằng tình nghĩa, vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau chia sẽ và thực hiện công việc trong gia đình Nay chị M xác định chị không còn tình cảm với anh C nên chị không thể tiếp tục duy trì quan hệ hôn nhân với anh C Tòa án đã tiến hành tống đạt các văn bản tố tụng để anh C tham gia cácphiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, các phiên tòa xét xử nhưng anh C vắng mặt không có lý do, không gửi văn bản trình bày ý kiến trước yêu cầu khởi kiện của chị M Điều đó chứng tỏ anh C đã không quan tâm đến việc hòa giải hàn gắn đoàn tụ cũng như bỏ mặc tình trạng hôn nhân của mình. Xét thấy, hôn nhân của chị M và anh C đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên ly hôn là giải pháp tốt nhất để cả hai tự ổn định cuộc sống riêng Vì vậy, xét yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của nguyên đơn là có cơ sở và phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3] Về con chung: Chị M có yêu cầu trực tiếp nuôi con chung là Mã Hoàng Thiên Bảo, sinh ngày 24/7/2015, còn Mã Hoàng Thiên Long, sinh ngày 14/01/2009 muốn ở với ai thì người đó nuôi Xét thấy, hiện hai con chung đang sống chung với chị M Hơn nữa, cháu Long có nguyện vọng sống chung với mẹ Do đó, căn cứ vào khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị M về việc trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cả hai con chung. Anh C có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung mà không ai được cản trở Về cấp dưỡng nuôi con: Đương sự không đặt ra trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết

[4] Về tài sản chung: Chị M xác định không có, không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét Do không ghi nhận được ý kiến của bị đơn anh Mã Hồng C, nếu sau này có phát sinh tranh chấp anh C có quyền khởi kiện thành vụ kiện khác

[5] Về nợ chung: Không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét

[6] Về án phí: Chị M phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân và gia đình theo quy định của pháp luật

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228 và khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự Khoản 1 Điều 56; Điều 58; Điều 81; Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị M được ly hôn với anh Mã Hồng C. Giấy chứng nhận kết hôn số 16, quyển số 01 do Ủy ban nhân dân xã Khánh Bình cấp ngày 07/3/2008 không còn hiệu lực Về con chung: Giao hai con chung là cháu Mã Hoàng Thiên Bảo, sinh ngày 24/7/2015 và cháu Mã Hoàng Thiên Long, sinh ngày 14/01/2009 cho chị M trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục đến khi con đủ 18 tuổi Cấp dưỡng nuôi con không yêu cầu nên không xem xét, giải quyết Anh C có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở Trường hợp lạm dụng việc thăm nom con chung để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nôm, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm con của người không trực tiếp nuôi con Trên cơ sở lợi ích của con, theo yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức thì Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con Về tài sản chung: Không yêu cầu nên không xem xét.

Về nợ chung: Không yêu cầu nên không xem xét.

2. Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Chị M phải chịu 300 000 đồng. Ngày 17/11/2021 chị M đã dự nộp 300 000 đồng tại biên lai số 0004136 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Trần Văn Thời nay được chuyển thu, chị M đã nộp đủ án phí

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Về quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị M, anh Mã Hồng C vắng mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

288
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, nuôi con số 59/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:59/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trần Văn Thời - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:21/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về