TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 39/2024/HNGĐ-ST NGÀY 11/03/2024 VỀ LY HÔN, NUÔI CON
Ngày 11 tháng 3 năm 2024 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 422/2023/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 12 năm 2023 về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 32/2024/QĐXX-ST ngày 22 tháng 01 năm 2024 và Quyết định hoãn phiên toà số: 38/2024/QĐST-HNGĐ ngày 19 tháng 02 năm 2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Yến E, sinh năm 1993; (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt) Nơi cư trú: tổ 04, ấp Mỹ H, xã M, huyện Ch1, tỉnh A.
2. Bị đơn: Anh Trương Văn T2, sinh năm 1987; (vắng mặt) Nơi cư trú: tổ 07, ấp An Ph, xã An H, huyện Ch, tỉnh A.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Yến E trình bày:
- Về quan hệ hôn nhân: chị và anh Trương Văn T2 do tìm hiểu tiến đến hôn nhân, chung sống với nhau từ năm 2013 có tổ chức lễ cưới, có đăng ký kết hôn vào năm 2013 tại Ủy ban nhân dân xã An Hòa, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang. Thời gian đầu vợ chồng chung sống rất hạnh phúc, nhưng đến khoảng năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn, có nhiều bất đồng về quan điểm sống, do không trùng quan niệm sống. Chị và anh T2 ly thân từ 4/2020. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, chị yêu cầu ly hôn với anh T2.
- Về quan hệ con chung: có 02 con chung tên là: Trương Nguyễn Ngọc Th, sinh ngày 30/5/2014 và Trương Nguyễn Ngọc H, sinh ngày 01/02/2016. Hiện 02 cháu Th và H đang sống với chị Yến E. Khi ly hôn chị yêu cầu được tiếp tục nuôi 02 con chung, không yêu cầu anh T2 cấp dưỡng nuôi con.
- Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
* Toà án đã nhiều lần triệu tập bị đơn anh Trương Văn T2 để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hoà giải, cũng như tham gia phiên toà nhưng anh T2 đều vắng mặt không có lý do, đồng thời cũng không có văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu của nguyên đơn. Toà án đã tiến hành các thủ tục xác minh, lấy lời khai bị đơn tại nơi cư trú nhưng anh T2 không có mặt ở nhà khi cán bộ Toà án đến, nên Toà án không lấy được lời khai của bị đơn.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành phát biểu ý kiến:
+ Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của nguyên đơn trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Tuy nhiên, bị đơn chưa thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng.
+ Về việc giải quyết vụ án: Về quan hệ hôn nhân: đề nghị chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Nguyễn Thị Yến E. Về con chung: đề nghị giao hai cháu Trương Nguyễn Ngọc Th và Trương Nguyễn Ngọc H cho chị Yến E tiếp tục chăm sóc và nuôi dưỡng, anh T2 không phải cấp dưỡng nuôi các con chung do chị Yến E không yêu cầu. Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Toà án giải quyết nên đề nghị không đặt ra xem xét.
Về án phí: chị Yến E phải chịu án phí theo quy định pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về áp dụng pháp luật tố tụng:
[1.1] Thẩm quyền giải quyết: bị đơn anh Trương Văn T2 hiện có nơi cư trú tại: tổ 07, ấp An Phú, xã An Hòa, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang, căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành.
[1.2] Quan hệ pháp luật tranh chấp: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Yến E khởi kiện yêu cầu ly hôn với bị đơn anh Trương Văn T2 và yêu cầu nuôi con, căn cứ khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự thì đây là vụ án về tranh chấp ly hôn, nuôi con.
[1.3] Về sự vắng mặt của đương sự:
Ngày 19/02/2024, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Yến E có đơn đề nghị xét xử vắng mặt được Hội đồng xét xử chấp nhận. Bị đơn anh Trương Văn T2 đã được Toà án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không lý do, căn cứ khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự 2015, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt đối với các đương sự.
[2] Về áp dụng pháp luật nội dung:
Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Nguyễn Thị Yến E thấy: [2.1] Về quan hệ hôn nhân:
Theo nguyên đơn chị Yến E trình bày thì chị và bị đơn anh Trương Văn T2 do tìm hiểu mới tiến đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn năm 2013 theo quy định pháp luật. Thời gian đầu vợ chồng chung sống rất hạnh phúc, nhưng đến khoảng năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn theo chị Yến E trình bày do vợ chồng có nhiều bất đồng về quan điểm sống.
Trong quá trình giải quyết vụ án, Toà án đã nhiều lần mở phiên hoà giải nhằm tạo điều kiện để chị Yến E và anh T2 hàn gắn tình cảm, nhưng chị Yến E vẫn kiên quyết ly hôn, anh T2 được Toà án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt không lý do, cũng như không có văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, điều này chứng tỏ anh T2 không có nguyện vọng đoàn tụ với chị Yến E. Chị Yến E và anh T2 ly thân từ 4/2020, nhưng anh, chị không hàn gắn tình cảm lại được.
Tất cả điều này cho thấy hôn nhân của chị Yến E và anh T2 đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nên căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Yến E.
[2.2] Về quan hệ con chung: Chị Yến E và anh T2 có 02 con chung tên: Trương Nguyễn Ngọc Th, sinh ngày 30/5/2014 và Trương Nguyễn Ngọc H, sinh ngày 01/02/2016. Hiện 02 cháu Th và H đang sống với chị Yến E. Tại văn bản trình bày ý kiến cùng ngày 22/12/2023 hai cháu Ngọc Th và Ngọc H đều có nguyện vọng sống với mẹ nếu cha mẹ ly hôn.
Xét thấy, từ khi ly thân đến nay hai cháu Ngọc Th và Ngọc H đã sống ổn định với chị Yến E, anh T2 không có ý kiến được trực tiếp nuôi dưỡng các cháu. Do đó, để đảm bảo cuộc sống của các cháu được ổn định, không bị xáo trộn sau khi cha mẹ ly hôn nên căn cứ quy định tại Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị Yến E, giao hai cháu Ngọc Th và Ngọc H cho chị Yến E tiếp tục chăm sóc và nuôi dưỡng. Chị Yến E phải tạo điều kiện thuận lợi cho anh T2 được quyền tới lui thăm nom, chăm sóc các con chung, không ai cản trở khi anh T2 thực hiện quyền này.
Về cấp dưỡng: Chị Yến E không yêu cầu anh T2 cấp dưỡng nuôi các con chung nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
[2.3] Về tài sản chung và nợ chung: theo chị Yến E trình bày vợ chồng không có tài sản chung và nợ chung, không yêu cầu Toà án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét. Trường hợp sau này có phát sinh tranh chấp sẽ giải quyết bằng một vụ án khác.
[3] Về án phí: Chị Yến E phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí số 0004333 ngày 05/12/2023 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.
[4] Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào:
Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 238, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;
Khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình;
Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Nguyễn Thị Yến E.
1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Yến E được ly hôn với anh Trương Văn T2.
2. Về quan hệ con chung: có 02 con chung tên: Trương Nguyễn Ngọc Th, sinh ngày 30/5/2014 và Trương Nguyễn Ngọc H, sinh ngày 01/02/2016. Chị Nguyễn Thị Yến E được quyền tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng các cháu Ngọc Th và Ngọc H.
Về cấp dưỡng: Anh T2 không phải cấp dưỡng nuôi các con chung do chị Yến E không yêu cầu.
Chị Yến E cùng các thành viên trong gia đình không được cản trở anh T2 thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục các cháu Ngọc Th và Ngọc H.
Nếu người không trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con của người còn lại thì người còn lại có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.
Vì lợi ích của con chung, theo yêu cầu của con, cơ quan có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng dựa trên các quy định của pháp luật.
3. Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Toà án giải quyết. Trường hợp sau này có phát sinh tranh chấp sẽ giải quyết bằng một vụ án khác.
4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Yến E phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân gia đình, được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí số 0004333 ngày 05/12/2023 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.
5. Về quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị Yến E và anh Trương Văn T2 được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật thi hành án dân sự.
Bản án về ly hôn, nuôi con số 39/2024/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 39/2024/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - An Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 11/03/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về