Bản án về ly hôn, nuôi con số 38/2024/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TAM BÌNH, TỈNH VĨNH LONG

BẢN ÁN 38/2024/HNGĐ-ST NGÀY 21/03/2024 VỀ LY HÔN, NUÔI CON

Trong ngày 21 tháng 03 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long đã xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 587/2023/TLST-HNGĐ, ngày 21/12/2023 về tranh chấp “Ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 26/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày 06/02/2024 và Quyết định hoãn phiên toà số 31/2024/QĐ- HNGĐ, ngày 27/02/2024 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Lưu Gia L, sinh năm 1992 (xin vắng) Địa chỉ: Số A, Phường B, Quận Bình Thuỷ, Thành Phố Cần Thơ.

- Bị đơn: Anh Hồ Văn C, sinh năm 1993 (vắng mặt) Địa chỉ: ấp C, xã D, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Tại đơn khởi kiện đề ngày 11/12/2023 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Lưu Gia L trình bày:

Vợ chồng qua quen biết từ năm 2011 rồi đi đến hôn nhân, có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn. Sau đó do mâu thuẫn nên đến năm 2014 thì vợ chồng thuận tình ly hôn và và được Toà án giải quyết bằng Quyết định số 79/2014/QĐST-HNGĐ, ngày 10/04/2014.

Sau khi ly hôn thì vợ chồng thấy còn tình cảm và trở lại sống chung như vợ chồng từ năm 2018 và có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân Phường B, Quận Bình Thuỷ, Thành Phố Cần Thơ ngày 23/12/2022.

Sau khi sống chung lại từ năm 2018 thì vợ chồng sống hạnh phúc được 05 năm, đến năm 2023 thì phát sinh mâu thuẫn, do bất đồng ý kiến, tính tình không hợp nhau, thường xuyên cự cãi và sống ly thân từ tháng 09/2023 cho đến nay. Mặc dù đã cố gắng vun đắp tình cảm vợ chồng nhưng không hàn gắn được. Nay chị thấy tình cảm vợ chồng không còn, nên yêu cầu được ly hôn với anh Hồ Văn C.

Về con chung: Khi ly hôn chị L yêu cầu nuôi con chung là Hồ Ngọc Tường L1, sinh ngày 25/09/2021 và không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Bị đơn anh Hồ Văn C vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án nên không trình bày.

- Trong đơn xin xét xử vắng mặt ngày 06/02/2024, nguyên đơn chị Lưu Gia L trình bày:

Chị yêu cầu ly hôn với anh Hồ Văn C. Về con chung: Khi ly hôn chị L yêu cầu nuôi con chung là Hồ Ngọc Tường L1, sinh ngày 25/09/2021 và không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ngoài các yêu cầu trên, các đương sự không có yêu cầu nào khác và cũng không có cung cấp tài liệu, chứng cứ mới tại phiên tòa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

- Về pháp luật tố tụng:

Nguyên đơn chị Lưu Gia L khởi kiện yêu cầu ly hôn, nuôi con nên đây là quan hệ pháp luật tranh chấp về “Ly hôn, nuôi con”; bị đơn anh Hồ Văn C cư trú tại xã D, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

- Về pháp luật nội dung:

[1]. Về quan hệ hôn nhân: Chị L và anh C có quen biết tìm hiểu nhau từ năm 2011 rồi đi đến hôn nhân, sau đó có đăng ký kết hôn và sau đó ly hôn theo Quyết định số 79/2014/QĐST- HNGĐ, ngày 10/04/2014 của Toà án nhân dân huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long. Đến năm 2018 thì chị L và anh C tự nguyện đi đến hôn nhân một lần nữa và có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân Phường B, Quận Bình Thuỷ, Thành Phố Cần Thơ ngày 23/12/2022, nên được pháp luật công nhận là hôn nhân hợp pháp.

Theo Lưu Gia L trình bày: Vợ chồng sống chung từ năm 2018 và sống hạnh phúc được 05 năm, đến năm 2023 thì phát sinh mâu thuẫn, do bất đồng ý kiến, tính tình không hợp nhau, thường xuyên cự cãi và sống ly thân từ tháng 09/2023 cho đến nay. Mặc dù đã cố gắng vun đắp tình cảm vợ chồng nhưng không hàn gắn được. Nay chị thấy tình cảm vợ chồng không còn, nên yêu cầu được ly hôn với anh Hồ Văn C.

Xét thấy, quan hệ hôn nhân của vợ chồng phải được xây dựng trên cơ sở tình cảm tự nguyện, có sự quan tâm chăm sóc lẫn nhau, vun đắp hạnh phúc, làm tròn quyền và nghĩa vụ của vợ chồng, tuy nhiên hiện tại vợ chồng chị L, anh C đã sống ly thân, mỗi người ở một nơi, không còn quan tâm, chăm sóc lẫn nhau. Qua đó cho thấy hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị L được ly hôn với anh C là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014: “... Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được”.

[2]. Về con chung: Chị Lưu Gia L khai có con chung với anh Hồ Văn C là Hồ Ngọc Tường L1, sinh ngày 25/09/2021 và yêu cầu được nuôi con.

Xét thấy việc quyết định giao con cho người cha hoặc người mẹ nuôi dưỡng sau khi ly hôn cần phải dựa trên quyền lợi về mọi mặt của người con, về điều kiện trông nom, chăm sóc, giáo dục con chung. Theo quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con…”. Và khoản 3 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con”.

Chị L là người trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Do đó để đảm bảo quyền lợi và sự phát triển của cháu, tránh thay đổi môi trường sống của cháu. Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị Lưu Gia L là giao cháu là Hồ Ngọc Tường L1, sinh ngày 25/09/2021 cho chị L tiếp tục nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp với quy định của pháp luật.

Anh Hồ Văn C được quyền, nghĩa vụ đến thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung mà không ai được quyền cản trở.

[3]. Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Lưu Gia L khai chưa yêu cầu, anh Hồ Văn C cũng chưa có văn bản nào trình bày về việc cấp dưỡng nuôi con, nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

[4]. Về tài sản chung, nợ chung: Chị Lưu Gia L khai chưa yêu cầu, anh Hồ Văn C cũng chưa có văn bản nào trình bày về tài sản chung, nợ chung, nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

[5]. Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227, Điều 228, 238, 271, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Căn cứ các Điều 56, 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ vào 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[1]. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của chị Lưu Gia L được ly hôn với Hồ Văn C.

[2]. Về con chung: Giao cháu Hồ Ngọc Tường L1, sinh ngày 25/09/2021 cho chị Lưu Gia L tiếp tục nuôi dưỡng, giáo dục.

Anh Hồ Văn C được quyền, nghĩa vụ đến thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung mà không ai được quyền cản trở.

[3]. Về cấp dưỡng nuôi con: Do chưa có yêu cầu, nên không đặt ra giải quyết.

[4]. Về tài sản chung, nợ chung: Do chưa có yêu cầu, nên không đặt ra giải quyết.

[5]. Về án phí: Chị Lưu Gia L phải nộp án phí dân sự sơ thẩm về việc xin ly hôn là 300.000đ nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số No 0013798 ngày 21/12/2023 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long. Chị Lưu Gia L đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án; quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

[6]. Về quyền kháng cáo: Các đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

29
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, nuôi con số 38/2024/HNGĐ-ST

Số hiệu:38/2024/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tam Bình - Vĩnh Long
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về