TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TAM BÌNH, TỈNH VĨNH LONG
BẢN ÁN 37/2024/HNGĐ-ST NGÀY 20/03/2024 VỀ LY HÔN, NUÔI CON
Trong ngày 20 tháng 03 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh V đã xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 555/2023/TLST-HNGĐ, ngày 28/11/2023 về tranh chấp “Ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 24/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày 01/02/2024 và Quyết định hoãn phiên toà số 29/2024/QĐ- HNGĐ, ngày 21/02/2024 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Thạch Thị Hồng H, sinh năm 1991 (xin vắng) Địa chỉ: ấp A, xã B, huyện T, tỉnh V - Bị đơn: Anh Thạch L, sinh năm 1991 (vắng mặt) Địa chỉ: ấp A, xã B, huyện T, tỉnh V
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Tại đơn khởi kiện đề ngày 14/09/2023 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Thạch Thị Hồng H trình bày:
Vào năm 2016 qua quen biết nên chị và anh Thạch L có tiến tới hôn nhân, có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn ngày 30/05/2016 tại UBND xã B, huyện T, tỉnh V.
Sau khi kết hôn thì vợ chồng sống ở ấp A, xã B, huyện T, tỉnh V. Thời gian đầu vợ chồng sống hạnh phúc nhưng đến năm 2022 thì vợ chồng phát sinh mẫu thuẫn do vợ chồng bất đồng ý kiến với nhau về những việc trong cuộc sống gia đình. Anh L không lo cho gia đình và vợ con, thường xuyên chơi cờ bạc. Mặc dù đã nhiều lần khuyên can nhưng không được. Do vậy vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 12 năm 2022 cho đến nay, anh L bỏ về nhà cha mẹ ruột sinh sống, hai bên không hàn gắn được chuyện gia đình, mạnh ai nấy sống, không còn quan tâm gì đến nhau. Chị thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu được ly hôn với anh Thạch L.
Về con chung: Có con chung là Thạch Hoà L1, sinh ngày 07/07/2017, hiện con đang sống với chị. Khi ly hôn chị H yêu cầu nuôi con và không yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Bị đơn anh Thạch L vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án nên không trình bày.
- Trong đơn xin xét xử vắng mặt ngày 01/02/2024, nguyên đơn chị Thạch Thị Hồng H trình bày: Chị yêu cầu ly hôn với anh Thạch L. Về con chung: Có con chung là Thạch Hoà L1, sinh ngày 07/07/2017, hiện con đang sống với chị. Khi ly hôn chị H yêu cầu nuôi con và không yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Ngoài các yêu cầu trên, các đương sự không có yêu cầu nào khác và cũng không có cung cấp tài liệu, chứng cứ mới tại phiên tòa.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
- Về pháp luật tố tụng:
Nguyên đơn chị Thạch Thị Hồng H khởi kiện yêu cầu ly hôn, nuôi con nên đây là quan hệ pháp luật tranh chấp về “Ly hôn, nuôi con”; bị đơn anh Thạch L cư trú tại xã B, huyện T, tỉnh V nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh V theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
- Về pháp luật nội dung:
[1]. Về quan hệ hôn nhân: Chị H và anh L có quen biết tìm hiểu nhau từ năm 2016 rồi đi đến hôn nhân, có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn tại UBND xã B, huyện T, tỉnh V ngày 30/05/2016 nên được pháp luật công nhận là hôn nhân hợp pháp.
Theo Thạch Thị Hồng H trình bày: Sau khi kết hôn thì vợ chồng sống ở ấp A, xã B, huyện T, tỉnh V. Thời gian đầu vợ chồng sống hạnh phúc nhưng đến năm 2022 thì vợ chồng phát sinh mẫu thuẫn do vợ chồng bất đồng ý kiến với nhau về những việc trong cuộc sống gia đình. Anh L không lo cho gia đình và vợ con, thường xuyên chơi cờ bạc. Mặc dù đã nhiều lần khuyên can nhưng không được. Do vậy vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 12 năm 2022 cho đến nay, anh L bỏ về nhà cha mẹ ruột sinh sống, hai bên không hàn gắn được chuyện gia đình, mạnh ai nấy sống, không còn quan tâm gì đến nhau. Chị thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu được ly hôn với anh Thạch L.
Xét thấy, quan hệ hôn nhân của vợ chồng phải được xây dựng trên cơ sở tình cảm tự nguyện, có sự quan tâm chăm sóc lẫn nhau, vun đắp hạnh phúc, làm tròn quyền và nghĩa vụ của vợ chồng, tuy nhiên hiện tại vợ chồng chị H, anh L đã sống ly thân, mỗi người ở một nơi, không còn quan tâm, chăm sóc lẫn nhau. Qua đó cho thấy hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị H được ly hôn với anh L là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014: “... Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được”.
[2]. Về con chung: Chị Thạch Thị Hồng H khai có con chung với anh Thạch L là Thạch Hoà L1, sinh ngày 07/07/2017 và yêu cầu được nuôi con.
Xét thấy việc quyết định giao con cho người cha hoặc người mẹ nuôi dưỡng sau khi ly hôn cần phải dựa trên quyền lợi về mọi mặt của người con, về điều kiện trông nom, chăm sóc, giáo dục con chung. Theo quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con…”. Chị H là người trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Do đó để đảm bảo quyền lợi và sự phát triển của cháu, tránh thay đổi môi trường sống và học tập của cháu. Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị Thạch Thị Hồng H là giao cháu là Thạch Hoà L1, sinh ngày 07/07/2017 cho chị H tiếp tục nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp với quy định của pháp luật.
Anh Thạch L được quyền, nghĩa vụ đến thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung mà không ai được quyền cản trở.
[3]. Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Thạch Thị Hồng H khai chưa yêu cầu, anh Thạch L cũng chưa có văn bản nào trình bày về việc cấp dưỡng nuôi con, nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.
[4]. Về tài sản chung, nợ chung: Chị Thạch Thị Hồng H khai chưa yêu cầu, anh Thạch L cũng chưa có văn bản nào trình bày về tài sản chung, nợ chung, nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.
[5]. Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227, Điều 228, 238, 271, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Căn cứ các Điều 56, 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;
Căn cứ vào 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
[1]. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của chị Thạch Thị Hồng H được ly hôn với anh Thạch L.
[2]. Về con chung: Giao cháu Thạch Hoà L1, sinh ngày 07/07/2017 cho chị Thạch Thị Hồng H tiếp tục nuôi dưỡng, giáo dục.
Anh Thạch L được quyền, nghĩa vụ đến thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung mà không ai được quyền cản trở.
[3]. Về cấp dưỡng nuôi con: Do chưa có yêu cầu, nên không đặt ra giải quyết.
[4]. Về tài sản chung, nợ chung: Do chưa có yêu cầu, nên không đặt ra giải quyết.
[5]. Về án phí: Chị Thạch Thị Hồng H phải nộp án phí dân sự sơ thẩm về việc xin ly hôn là 300.000đ nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số No 0013751 ngày 28/11/2023 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, tỉnh V. Chị Thạch Thị Hồng H đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án; quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
[6]. Về quyền kháng cáo: Các đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.
Bản án về ly hôn, nuôi con số 37/2024/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 37/2024/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tam Bình - Vĩnh Long |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 20/03/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về