Bản án về ly hôn, nuôi con số 21/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG HẢI, TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 21/2022/HNGĐ-ST NGÀY 09/02/2022 VỀ LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 09 tháng 02 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đông Hải xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 271/2021/TLST-HNGĐ ngày 13 tháng 12 năm 2021 về việc “Ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 05/2022/QĐXX-HNGĐ ngày 07 tháng 01 năm 2022, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Thạch Ngọc T, sinh năm 2002. Địa chỉ: K4, P1, thị xã GR, tỉnh Bạc Liêu.

Bị đơn: Anh Nguyễn Trung N, sinh năm 1994.

Địa chỉ: Ấp TA, xã LĐ, huyện ĐH, tỉnh Bạc Liêu.

(chị T có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, anh N vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 20/10/2021 và trong quá trình tố tụng, chị Thạch Ngọc T trình bày:

Về hôn nhân: Chị và anh N chung sống vào năm 2020 trên tinh thần tự nguyện, được cha mẹ tổ chức đám theo phong tục tại địa phương và có đến Ủy ban nhân dân xã LĐ, huyện ĐH, tỉnh Bạc Liêu đăng ký kết hôn ngày 16/7/2020.

Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc và có 01 người con chung. Nhưng gần đây vợ chồng thường xuyên mâu thuẫn, cãi nhau, cuộc sống luôn căng thẳng không hạnh phúc. Nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn là không cùng quan điểm, mỗi người có suy nghĩ, cách sống khác nhau. Chị và anh N nhiều lần hòa giải để tiếp tục chung sống nhưng không thành. Nay xét thấy vợ chồng không còn tình cảm, tiếp tục chung sống không hạnh phúc nên yêu cầu ly hôn.

Về con: Chị và anh N có 01 người con là Nguyễn Thạch Hoàng K, sinh ngày 05/7/2020 hiện nay đang sống cùng chị, khi ly hôn chị yêu cầu được nuôi con, không yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản: Chị và anh N không có tài sản, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Anh Nguyễn Trung N vắng mặt trong quá trình tố tụng và tại phiên tòa nên không có lời trình bày.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu phát biểu: Quá trình thụ lý giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng quy định Bộ luật tố tụng dân sự; nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định pháp luật. Bị đơn chưa chấp hành đúng theo giấy triệu tập của Tòa án.

Ý kiến về giải quyết vụ án:

Về hôn nhân: Năm 2020, chị T và anh N tự nguyện yêu thương, chung sống và có đăng ký kết hôn, do đó hôn nhân của anh chị là hợp pháp. Trong thời gian chung sống giữa chị T và anh N phát sinh nhiều mâu thuẫn không thể hàn gắn. Xét thấy, hôn nhân của chị T và anh N đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần cho chị T ly hôn với anh N là phù hợp.

Về con: Người con Nguyễn Thạch Hoàng K, sinh ngày 05/7/2020 đang sống cùng chị T cần tiếp tục giao con cho chị T nuôi là phù hợp. Anh N có quyền, nghĩa vụ thăm con không ai được cản trở.

Chị T không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét giải quyết.

Về tài sản: Chị T xác định không có nên không xem xét.

Về án phí hôn nhân chị T nộp theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Hải về tuân theo pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Chị Thạch Ngọc T khởi kiện yêu cầu ly hôn với anh Nguyễn Trung N, anh N có địa chỉ cư trú tại ấp TA, xã LĐ, huyện ĐH, tỉnh Bạc Liêu. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu.

Chị T có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, anh N được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham dự phiên tòa nhưng vắng mặt không có lý do. Căn cứ khoản 1 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, tiến hành xét xử vắng mặt chị T và anh N.

[2]. Về nội dung:

[2.1]. Về hôn nhân: Năm 2020, chị T và anh N tự nguyện yêu thương, chung sống nhau và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã LĐ vào năm 2020. Do đó, hôn nhân của anh chị là hợp pháp.

Trong thời gian chung sống giữa chị T và anh N phát sinh nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là vợ chồng không cùng quan điểm, mỗi người có suy nghĩ, cách sống khác nhau, hiện nay chị T xác định mâu thuẫn giữa chị và anh N đã trầm trọng, không còn khả năng hàn gắn nên yêu cầu ly hôn.

Hội đồng xét xử xét thấy: Mục đích của hôn nhân là xây dựng gia đình hạnh phúc, vợ chồng có nghĩa vụ yêu thương, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau chia sẻ. Tuy nhiên, qua thời gian chung sống giữa chị T và anh N không thực hiện được mà còn phát sinh nhiều mâu thuẫn. Trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần triệu tập anh N đến tham dự phiên hòa giải, phiên tòa nhưng anh N vắng mặt không có lý do. Xét thấy hôn nhân của chị T với anh N đã lâm vào trình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, cần chấp nhận yêu cầu của chị T được ly hôn với anh N là phù hợp.

[2.2]. Về con: Người con Nguyễn Thạch Hoàng K, sinh ngày 05/7/2020 đang sống cùng chị T, để đảm bảo tốt nhất cuộc sống của con chưa thành niên cần tiếp tục giao con cho chị T nuôi là phù hợp. Anh N có quyền, nghĩa vụ thăm con chung không ai được cản trở.

Chị T không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét.

[2.3]. Về tài sản: Chị T xác định không có nên không xem xét.

[2.4]. Về án phí sơ thẩm hôn nhân: Chị T phải nộp số tiền 300.000 đồng, được đối trừ tiền tạm ứng án phí đã nộp.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, khoản 1 khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 51, 53, 56, 81, 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình;

Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Cho chị Thạch Ngọc T được ly hôn với anh Nguyễn Trung N.

2. Về con: Giao người con Nguyễn Thạch Hoàng Kỳ, sinh ngày 05/07/2020 cho chị Thạch Ngọc T nuôi dưỡng. Anh Nguyễn Trung N có quyền, nghĩa vụ thăm con không ai được cản trở.

Về cấp dưỡng: Chị Thạch Ngọc T không yêu cầu nên không xem xét.

3. Về tài sản: Không xem xét giải quyết.

4. Về án phí sơ thẩm hôn nhân: Chị Thạch Ngọc T nộp số tiền 300.000 đồng, chị Thạch Ngọc T đã nộp tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng theo biên lai thu tiền số 0001912 vào ngày 13/12/2021 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Đông Hải được chuyển thu án phí.

Án xử công khai, chị Thạch Ngọc T, anh Nguyễn Trung N có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

142
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, nuôi con số 21/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:21/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đông Hải - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 09/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về