Bản án về ly hôn, nuôi con số 08/2024/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN M’ĐRẮK, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 08/2024/HNGĐ-ST NGÀY 29/03/2024 VỀ LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 29 tháng 3 năm 2024, tại hội trường Tòa án nhân dân huyện M’Đrắk xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 177/2023/TLST–HNGĐ ngày 07/11/2023, về việc "Ly hôn, nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 08/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày 04 tháng 03 năm 2024 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà H B Niê, sinh năm 1993. Địa chỉ: Buôn GN, xã C, huyện M, tỉnh Đắk Lắk. Bà H B Niê vắng mặt, có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

- Bị đơn: Ông Y W Byă, sinh năm 1990. Địa chỉ: Buôn G, xã K, huyện M, tỉnh Đắk Lắk.Ông Y W Byă vắng mặt không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện vàquá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà H Bluôn Niê trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà H B Niê và ông Y W Byă đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Cư M’ta huyện M’Đrắk ngày 14/01/2013, việc kết hôn là tự nguyện. Thời gian đầu chung sống hạnh phúc nhưng sau đó bà H B và ông Y W thường xuyên mâu thuẫn, cãi vã. Nguyên nhân mâu thuẫn do ông Y Wen thường xuyên uống rượu, chửi bới và gây sự với vợ con, không lo đi làm và chăm lo cho gia đình, thường xuyên ghen tuông vô cớ. Tháng 10/2023, ông Y W tự bỏ về nhà mẹ ở buôn Glăn, xã Krông Jing cho đến nayvợ chồng không còn sống chung và quan tâm gì đến nhau. Nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà H B Niê đề nghị Tòa án giải quyết cho ly hôn với ông Y W Byă.

Về con chung: Bà H B và ông Y W có 02con chung làY Ph Niê sinh ngày 09/12/2012 và H H Niê sinh ngày 11/5/2017. Cả hai con hiện đang sống với bà H B. Khi ly hôn, bà H B có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cả 02 con chung cho đến khi con đủ 18 tuổi và không yêu cầu ông Y W Byă cấp dưỡng. Bà H B hiện đang làm nông tại địa phương thu nhập hàng tháng khoảng 6.000.000 đồng/tháng đủ điều kiện để nuôi dưỡng chăm sóc các con.

Về tài sản chung, nợ chung: Bà H B và ông Y W tự thỏa thuận nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

*Tại biên bản lấy lời khai ngày 16/01/2024, bị đơn ông Y W Byă trình bày:

Thời gian đầu, vợ chồng chung sống hạnh phúc. Đến khoảng tháng 6/2023 bà H B đi làm ở Đồng Nai thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Đến khoảng tháng 9/2023 bà H B quay về nhà, do mâu thuẫn nên ông Y W chuyển về sinh sống tại nhà mẹ đẻ ở buôn Glăn, xã Krông Jing cho đến nay và để con cho bà H B nuôi dưỡng. Ông Y W có nguyện vọng đoàn tụ gia đình, không muốn ly hôn.Về con chung: Trường hợp ly hôn, ông Y W có nguyện vọng giao cả hai con cho bà H B trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng đến khi các con đủ18 tuổi.

Về tài sản chung, nợ chung: Bà H B và ông Y W tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên:

- Thẩm phán xác định đúng quan hệ pháp luật, thẩm quyền giải quyết, tư cách tham gia tố tụng của các đương sự trong vụ án. Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán trong quá trình giải quyết vụ án cũng như Hội đồng xét xử (HĐXX) và thư ký phiên tòa tại phên tòa đã thực hiện đúng quy định về trình tự thủ tục tố tụng dân sự.

- Việc chấp hành pháp luật của các đương sự: Nguyên đơnđã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình. Bị đơn không chấp hành các giấy triệu tập của Toà án, vắng mặt không có lý do. Nguyên đơn có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt. Đê nghị HĐXX tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định của pháp luật.

- Về nội dung: Các đương sự có đăng ký kết hôn, đã không còn sống chung từ lâu, mâu thuẫn vợ chồng là trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, yêu cầu ly hôn và nuôi con của nguyên đơn là chính đáng. Đề nghị HĐXX áp dụng khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82 Luật Hôn nhân gia đình, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, xử cho nguyên đơn và bị đơn ly hôn. Giao con chung Y Phúc Niê, sinh ngày 09/12/2012 và H Hậu Niê, sinh ngày 11/5/2017 cho bà H Bluôn Niê trực tiếp nuôi dưỡng đến khi con đủ 18 tuổi. Về cấp dưỡng nuôi con chung và tài sản chung, các đương sự không yêu cầu nên không đặt ra giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, HĐXX nhận định:

[1] Về tố tụng:

Yêu cầu khởi kiện về việc “Ly hôn, nuôi con” giữa nguyên đơn và bị đơn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện M’Đrắk theo quy định tại Điều 28, điểm a, khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS). Nguyên đơn có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt. Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lý lần thứ hai nhưng vắng mặt.HĐXX cần áp dụng khoản 2 Điều 227, Điều 228 và Điều 238 của BLTTDS, xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.

[2]Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Nguyên đơn và bị đơn là vợ chồng có đăng ký kết hôn hợp pháp. Kết quả xác minh tại địa phương và lời khai của các đương sự đã xác định: Nguyên đơn và bị đơn đã không còn chung sống từ năm tháng 10/2023 cho đến nay, mâu thuẫn vợ chồng là thực tế. Xét thấy mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Yêu cầu ly hôn của nguyên đơn là có căn cứ, theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình nên HĐXX cần chấp nhận.

[2.2] Về quan hệ con chung: Nguyên đơn và bị đơn có hai con chung đều đang sống cùng nguyên đơn. Nguyên đơn và bị đơn đều nhất trí để cho nguyên đơn trực tiếp nuôi các con. Hiện nay Y Ph Niê đã trên 07 tuổi có nguyện vọng muốn sống cùng mẹ. Xét thấy, nguyên đơn có khả năng lao động đáp ứng đầy đủ cho việc nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục con sau khi vợ chồng ly hôn. Để bảo đảm quyền lợi về mọi mặt cho con, HĐXX căn cứ khoản 2 Điều 81, Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình, giao con Y Ph Niê, sinh ngày 09/12/2012 và H H Niê, sinh ngày 11/5/2017 cho nguyên đơntrực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi thành niên (đủ 18 tuổi).

[2.3] Về cấp dưỡng nuôi con chung, tài sản chung và nợ chung: Các đương sựkhông yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[3] Về án phí: Nguyên đơn yêu cầu giải quyết ly hôn phải chịu 300.000đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm. Nguyên đơn là người dân tộc thiểu số sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và có đơn đề nghị miễn tạm ứng án phí, án phí nên được miễn toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 220, điểm b khoản 2 Điều 227, các Điều 228, 238, 244, 266 và điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 56, Điều 58, khoản 2 Điều 81, các Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, xử cho bà H B Niê được ly hôn với ông Y W Byă.

2.Về con chung: Giao con chung Y Ph Niê, sinh ngày 09/12/2012 và H H Niê, sinh ngày 11/5/2017cho bà H B Niê trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom con, không ai được cản trở người đó thực hiện quyền này.

2. Về án phí:Nguyên đơn được miễn toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm.

3. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

33
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, nuôi con số 08/2024/HNGĐ-ST

Số hiệu:08/2024/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện M'Đrắk - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về