TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HH, TỈNH NAM ĐỊNH
BẢN ÁN 288/2023/HNGĐ-ST NGÀY 23/11/2023 VỀ LY HÔN, NUÔI CON KHI LY HÔN
Ngày 23 tháng 11 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện HH, tỉnh Đ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 231/2023/TLST - HNGĐ, ngày 09 tháng 10 năm 2023 về việc “Ly hôn, nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 192/2023/QĐXXST - HNGĐ ngày 03 tháng 11 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 116/2023/QĐST – HNGĐ, ngày 13 tháng 11 năm 2023 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1999; địa chỉ: Tổ dân phố số 5, thị trấn C, huyện HH, tỉnh Đ, “có đơn xin vắng mặt”;
- Bị đơn: Anh Nguyễn Thái K, sinh năm 1998; địa chỉ: Tổ dân phố số 5, thị trấn C, huyện HH, tỉnh Đ, “vắng mặt”;
- Người làm chứng: Bà Trần Thị L, sinh năm 1970; địa chỉ: Tổ dân phố số 5, thị trấn C, huyện HH, tỉnh Đ, “có ý kiến xin vắng mặt”.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện đề ngày 29 tháng 9 năm 2023 và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Nguyễn Thị T trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị T và anh Nguyễn Thái K kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn C ngày 20/10/2020 trên cơ sở tự nguyện. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc tại nhà của bố mẹ anh K được một năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do anh K không tu chí làm ăn, không quan tâm đến vợ con. Chị T đã nhiều lần khuyên bảo và cho anh K cơ hội sửa chữa lỗi lầm nhưng anh K không thay đổi, người thân cũng khuyên bảo anh K nhưng không có kết quả. Mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng nên chị T và anh K đã sống ly thân một năm nay, hai người không còn quan tâm đến nhau. Nay chị T xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị Tòa án cho được ly hôn anh K.
Về con chung: Chị T và anh K có 01 con chung là Nguyễn Hoàng Gia B, sinh ngày 01/02/2021, hiện đang ở cùng chị T. Khi ly hôn chị T có nguyện vọng trực tiếp được nuôi con, không yêu cầu anh K cấp dưỡng.
Về tài sản chung, nghĩa vụ chung về tài sản: Chị T và anh K không có tài sản chung, không nợ tài sản của ai nên chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án nhân dân huyện HH đã tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án số 231/2023/TLST – HNGĐ, ngày 09/10/2023 và các văn bản tố tụng khác cho anh Nguyễn Thái K biết để anh K có ý kiến bằng văn bản về yêu cầu xin ly hôn, nuôi con chung của chị T gửi Tòa án và đến Tòa án làm việc. Tuy nhiên, trong suốt quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án đến nay, anh K không có văn bản thể hiện ý kiến của mình về yêu cầu khởi kiện của chị T gửi cho Tòa án cũng như không đến Tòa làm việc mà không có lý do.
Người làm chứng, bà Trần Thị L có bản tự khai trình bày: Bà Lại là mẹ đẻ của anh Nguyễn Thái K. Anh K và chị T tự do tìm hiểu và tự nguyện đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn C. Sau khi kết hôn, anh K và chị T chung sống cùng vợ chồng bà Lại. Hiện anh K và chị T đang sống ly thân, anh K ngoài thời gian đi làm ăn xa thì về chung sống cùng vợ chồng bà Lại, chị T đưa con đi chỗ khác ở riêng. Anh K và chị T có một con chung, không có tài sản chung. Sau khi nhận thông báo thụ lý vụ án và các văn bản của Tòa án gửi cho anh K, bà Lại đều đã thông báo và giao ngay lại cho anh K biết nhưng anh K bận công việc, thường xuyên phải đi làm xa nên không đến Tòa án làm việc. Anh K có nói với bà Lại là không nhất trí ly hôn chị T, nếu phải ly hôn anh K nhận nuôi con chung.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện HH tại phiên tòa phát biểu:
Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa tại phiên tòa đều đảm bảo tuân thủ đúng quy định pháp luật tố tụng dân sự. Các đương sự cơ bản đã chấp hành đúng quy định pháp luật: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị T có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn anh Nguyễn Thái K đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt tại phiên tòa không có lý do, người làm chứng bà Trần Thị L có ý kiến xin vắng mặt nên đủ căn cứ xét xử vắng mặt các đương sự và người làm chứng.
Về nội dung vụ án: Căn cứ khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình, đề nghị Hội đồng xét xử:
- Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị T đối với anh Nguyễn Thái K.
- Về con chung: Giao cháu Nguyễn Hoàng Gia B, sinh ngày 01/02/2021 cho chị Nguyễn Thị T trực tiếp nuôi dưỡng đến khi thành niên. Anh Nguyễn Thái K không phải cấp dưỡng nuôi con. Chị T và anh K có mọi quyền và nghĩa vụ đối với con chung theo quy định của pháp luật.
- Về án phí: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị T phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Tại phiên tòa, nguyên đơn chị Nguyễn Thị T vắng mặt nhưng đã có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa; bị đơn anh Nguyễn Thái K vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do; người làm chứng bà Trần Thị L có ý kiến xin vắng mặt. Do đó, Hội đồng xét xử tiến hành xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn và người làm chứng là phù hợp với quy định tại khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1, khoản 2 Điều 228; khoản 2 Điều 229 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị T và anh Nguyễn Thái K có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn C, huyện HH vào ngày 20/10/2020 trên cơ sở tự nguyện nên quan hệ hôn nhân giữa chị T và anh K là hợp pháp. Vợ chồng đã sống ly thân một năm nay. Nguyên nhân do anh K không tu chí làm ăn, chăm lo cho gia đình, ăn chơi dẫn đến nợ tài sản nhiều người. Nay chị T xin ly hôn, anh K đã được Tòa án tống đạt hợp lệ văn bản tố tụng nhưng không có ý kiến về việc chị T xin ly hôn.
Xét yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị T, Hội đồng xét xử nhận định: thực tế cuộc sống vợ chồng giữa chị T và anh K không hạnh phúc, hai người đã sống ly thân một năm nay không quan tâm đến nhau; mặt khác anh K đã được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án nhưng đến nay không có văn bản ghi ý kiến của mình gửi cho Tòa án và cũng không có mặt tại các buổi làm việc của Tòa án đã chứng tỏ anh K không có thiện chí hàn gắn tình cảm vợ chồng với chị T. Như vậy, mâu thuẫn vợ chồng giữa chị T và anh K đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ vào khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị T, cho chị Nguyễn Thị T được ly hôn anh Nguyễn Thái K là phù hợp.
[3] Về con chung: Chị Nguyễn Thị T và anh Nguyễn Thái K có một con chung Nguyễn Hoàng Gia B, sinh ngày 01/02/2021 hiện đang ở cùng chị T. Khi ly hôn chị T có nguyện vọng trực tiếp nuôi con chung, không yêu cầu anh K cấp dưỡng nuôi con. Anh K không có ý kiến gì về việc nuôi con. Xét thấy hiện nay con chung còn nhỏ dưới 36 tháng tuổi và đang ở cùng chị T, anh K không có ý kiến về việc nuôi con chung sau ly hôn; để đảm bảo điều kiện tốt nhất cho con chung phát triển và tránh xáo trộn cuộc sống tâm lý của con chung, căn cứ vào các Điều 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân gia đình, cần giao con chung cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với điều kiện hoàn cảnh thực tế hiện nay và phù hợp với quy định của pháp luật. Do chị T không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con sau ly hôn nên anh K không phải cấp dưỡng nuôi con; hai người có mọi quyền và nghĩa vụ đối với các con chung theo quy đinh của pháp luật.
[4] Về tài sản chung, nghĩa vụ chung về tài sản: Do đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
[5] Về án phí: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị T phải nộp án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.
[6] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 4 Điều 147; khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1, khoản 3 Điều 228; khoản 2 Điều 229 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý về sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Về hôn nhân: Xử cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị T và anh Nguyễn Thái K.
2. Về nuôi con chung: Giao cháu Nguyễn Hoàng Gia B, sinh ngày 01/02/2021 cho chị Nguyễn Thị T tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng đến khi thành niên. Anh Nguyễn Thái K không phải cấp dưỡng nuôi con. Chị T và anh K có mọi quyền và nghĩa vụ đối với con chung theo quy định của pháp luật. Hiện cháu Bảo đang ở cùng chị T.
3. Về tài sản chung, nghĩa vụ chung về tài sản: Không giải quyết.
4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị T phải nộp án phí ly hôn là 300.000 đồng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu số 0002781 ngày 09/10/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện HH. Chị T đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị T và bị đơn anh Nguyễn Thái K có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án về ly hôn, nuôi con khi ly hôn số 288/2023/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 288/2023/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Nghĩa Hưng - Nam Định |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 23/11/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về