Bản án về ly hôn, nuôi con chung số 38/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TY, TỈNH YÊN BÁI

BẢN ÁN 38/2022/HNGĐ-ST NGÀY 15/09/2022 VỀ LY HÔN, NUÔI CON CHUN

Ngày 15- 9-2022, tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện TY, tỉnh Yên Bái xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 89/2022/TLST-HNGĐ ngày 21-6-2022 về việc Ly hôn,  tranh  chấp về nuôi con theo Quyết  định đưa vụ án ra xét  xử  số 34/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 05-8-2022 và Quyết định hoãn phiên toà được ấn  định thời gian, địa điểm mở lại phiên tòa số 29/2022/QĐST-HNGĐ ngày 05-8-2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Trịnh Thị D, sinh năm 1992. Vắng mặt có đơn đề nghị giải quyết, xét xử vắng mặt.

Địa chỉ: Thôn X, xã HC, huyện TY, tỉnh Yên Bái.

2. Bị đơn: Anh Đỗ Văn T, sinh năm 1984. Vắng mặt.

Địa chỉ: Thôn X, xã HC, huyện TY, tỉnh Yên Bái.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 20-6-2022 và bản tự khai, nguyên đơn chị Trịnh Thị  D trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Trịnh Thị D và anh Đỗ Văn T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, tự do tìm hiểu, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã HC, huyện TY, tỉnh Yên Bái vào ngày 27-4-2009. Sau khi kết hôn, cuộc sống vợ chồng hoà thuận   hạnh phúc đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do tính cách anh T bảo thủ, thường ghen tuông và vợ chồng không tìm được tiếng nói chung, hay xảy ra cãi vã. Mâu thuẫn đã được gia đình hoà giải nhưng không thành, vợ chồng sống ly thân từ tháng 2 năm 2020 đến nay. Nay chị D xác định tình cảm vợ chồng không còn, đề nghị Toà án nhân dân huyện TY giải quyết cho chị được ly hôn anh Đỗ Văn T.

Về con chung: Chị Trịnh Thị D và anh Đỗ Văn T có 02 con chung là Đỗ Trà M, sinh ngày 28/7/2015 hiện đang sống với chị D và Đỗ Trịnh Gia H, sinh ngày 02/5/2009 hiện đang sống với anh T. Ly hôn, chị D có nguyện vọng được tiếp tục nuôi cháu Đỗ Trà M, để anh T tiếp tục nuôi cháu Đỗ Trịnh Gia H, không ai phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân huyện TY đã thực hiện đầy đủ thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật và niêm yết, tống đạt các văn bản tố tụng hợp lệ thông qua ông Đỗ Quang Trung là bố đẻ anh Đỗ Văn T, trú tại Thôn X, xã HC, huyện TY, tỉnh Yên Bái. Tuy nhiên bị đơn anh Đỗ Văn T không có mặt tại Tòa án và không có bản tự khai. Do đó, trong hồ sơ vụ án không có lời khai của anh T và Tòa án không tiến hành hòa giải được.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện TY, tỉnh Yên Bái phát biểu quan điểm: Việc tuân theo pháp luât trong quá trình thụ lý, giải quyết và tại phiên toà, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã thực hiện đảm bảo đúng quy định của tố tụng dân sự. Thụ lý vụ án đúng thẩm quyền, xác định đúng đủ người tham gia tố tụng.

Về nội dung: Căn cứ trên cơ sở các tài liệu, chứng cứ do các bên cung cấp và nội dung tranh tụng tại phiên toà đề nghị áp dụng Điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình, Điều 147, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự, Nghị Quyết 326 của UBTVQH quy định về án phí lệ phí Tòa án:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Trịnh Thị D được ly hôn anh Đỗ Văn T.

- Về nuôi con chung: Giao cháu Đỗ Trà M, sinh ngày 28/7/2015 cho chị Trịnh Thị  D trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục; Giao cháu Đỗ Trịnh Gia H, sinh ngày  02/5/2009 cho anh Đỗ Văn T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục; Không ai phải cấp dưỡng nuôi con cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác.

- Về án phí và quyền kháng cáo: Theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN 

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét  tại phiên tòa, căn cứ kết quả tranh tụng. Tòa án nhân dân huyện TY nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn anh Đỗ Văn T có đăng ký hộ khẩu tại Thôn X, xã HC, huyện TY, tỉnh Yên Bái nên yêu cầu ly hôn của chị Trịnh Thị D thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân huyện TY, tỉnh Yên Bái.

Bị đơn anh Đỗ Văn T vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do. Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định của pháp luật.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Trịnh Thị D và anh Đỗ Văn T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, tự do tìm hiểu, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã HC, huyện TY, tỉnh Yên Bái vào ngày 27/4/2009 là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hoà thuận, hạnh phúc đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn theo chị D là do tính cách anh T bảo thủ,  thường ghen tuông và vợ chồng không tìm được tiếng nói chung, hay xảy ra cãi vã. Mâu thuẫn đã được gia đình hoà giải nhưng không thành, vợ chồng sống ly thân từ tháng 2 năm 2020 đến nay. Tòa án nhân dân huyện TY, tỉnh Yên Bái đã thông báo nhiều lần nhưng bị đơn anh T không đến Tòa, không có bản tự khai gửi cho Toà án, không thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Hội đồng xét xử xét thấy hôn nhân giữa chị D, anh T đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung thực tế không còn tồn tại, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó có căn cứ cho chị Trịnh Thị D được ly hôn anh Đỗ Văn T theo quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.

[3] Về con chung: Chị Trịnh Thị D và anh Đỗ Văn T có 02 con chung là Đỗ Trà M, sinh ngày 28/7/2015 hiện đang sống với chị D và Đỗ Trịnh Gia H, sinh ngày 02/5/2009 hiện đang sống với anh T. Ly hôn, chị D có nguyện vọng được nuôi cháu Đỗ Trà M, để anh T nuôi cháu Đỗ Trịnh Gia H, không ai phải cấp dưỡng nuôi con.

Tại biên bản lấy lời khai cháu Đỗ Trà M ngày 29/7/2022 của Toà án nhân dân huyện TY thể hiện cháu My muốn được sống với mẹ, vì vậy xét thấy nguyện vọng được nuôi con của chị D là chính đáng cần được chấp nhận.

Tại biên bản lấy lời khai cháu Đỗ Trịnh Gia H ngày 19/7/2022 của Toà án nhân dân huyện TY thể hiện cháu H muốn được sống với bố khi bố mẹ ly hôn. Mặc dù anh Đỗ Văn T không có mặt tại Toà án và không có bản tự khai, tuy nhiên chị Trịnh Thị D cũng mong muốn anh T tiếp tục nuôi cháu H. Xét việc giao con chưa thành niên cho ai nuôi dưỡng khi ly hôn cần căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con và thời điểm hiện tại cháu H vẫn được học tập, sinh hoạt ổn định. Vì vậy Hội đồng xét xử nhận thấy việc giao cháu Đỗ Trịnh Gia H cho anh Đỗ Văn T nuôi dưỡng là phù hợp.

Xét thấy anh T vắng mặt tại Tòa án, chị D không tự nguyện cấp dưỡng và không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con nên Tòa án không xem xét giải quyết về cấp dưỡng nuôi con.

[4] Về tài sản và nợ chung: Chị Trịnh Thị D không yêu cầu Tòa án giải quyết, mặt khác do anh T chưa có lời khai nên chưa có cơ sở xem xét. Vì vậy, Tòa án không đặt ra giải quyết quan hệ về tài sản và nợ chung.

[5] Về án phí: Chị Trịnh Thị D phải chịu án phí DSST ly hôn theo quy định của pháp   luật.

[6] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của   pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH 

Căn cứ vào Điều 28, Điều 35, Điều 147, khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 235, Điều 238, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56, Điều 57, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Trịnh Thị D được ly hôn anh Đỗ Văn T.

2. Về con chung: Giao cháu Đỗ Trà M, sinh ngày 28/7/2015 cho chị Trịnh Thị D trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục; Giao cháu Đỗ Trịnh Gia H, sinh ngày  02/5/2009 cho anh Đỗ Văn T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục; Không ai phải cấp dưỡng nuôi con cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con  chung không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Trịnh Thị D phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn được khấu trừ vào 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số AA/2021/0001920 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện TY, tỉnh Yên Bái ngày 20-6-2022.

4. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

148
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, nuôi con chung số 38/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:38/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trấn Yên - Yên Bái
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về