Bản án về ly hôn, nuôi con chung số 18/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN MINH, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 18/2022/HNGĐ-ST NGÀY 29/03/2022 VỀ LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 29 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện An Minh, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 196/2021/TLST- HNGĐ ngày 01 tháng 11 năm 2021 về "ly hôn, nuôi con chung".

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 15/2022/QĐXXST- HNGĐ ngày 15 tháng 02 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Kim C, sinh năm 1985 HKTT: ấp T, xã N, huyện A, tỉnh Kiên Giang.

Chỗ ở hiện nay: khu phố M, thị trấn L, huyện C, tỉnh Kiên Giang.

- Bị đơn: Anh Trương Minh P, sinh năm 1983 Địa chỉ: ấp X, xã T, huyện A, tỉnh Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn chị Nguyễn Kim C trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Năm 2003, chị và anh Trương Minh P tìm hiểu, sau đó chung sống với nhau trên cơ sở tự nguyện nhưng không có đăng ký kết hôn. Trong quá trình chung sống anh chị không hòa hợp nhau, suy nghĩ khác nhau và thường hay cự cãi. Anh P không quan tâm, chăm lo xây dựng gia đình. Anh chị đã cố gắng hàn gắn nhưng không có kết quả, anh chị đã sống ly thân từ năm 2016 đến nay. Chị và anh P không thể cùng nhau xây dựng cuộc sống chung nên chị yêu cầu Tòa án không công nhận chị và anh P là vợ chồng.

Về con chung: Chị và anh P có 01 người con chung là Trương Thị Huỳnh S, sinh ngày 13/6/2004, hiện chị đang nuôi dưỡng, con có nguyện vọng sống chung với chị. Chị yêu cầu tiếp tục nuôi dưỡng Trương Thị Huỳnh S, không yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Chị xác định chị và anh P không có tài sản chung và nợ chung, không phát sinh tranh chấp, không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.

* Bị đơn anh Trương Minh P vắng mặt, không có lời trình bày.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa có ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình, riêng bị đơn anh P vắng mặt tại phiên họp và phiên tòa lần thứ 2 mà không có lý do là chưa chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về hướng giải quyết vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, không công nhận chị C và anh P là vợ chồng, giao con chung cho chị C tiếp tục nuôi dưỡng. Về cấp dưỡng nuôi con, tài sản chung, nợ chung không yêu cầu nên không xem xét, giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Tòa án tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng anh P vắng mặt, không tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Tòa án triệu tập tham gia phiên tòa sơ thẩm nhưng anh P vắng mặt lần thứ hai không có lý do là chưa chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn chị C có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt. Do đó, Hội đồng xét xử thống nhất áp dụng điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự tiến hành xét xử vụ án vắng mặt chị C, anh P.

[2] Về quan hệ hôn nhân, chị C và anh P tự tìm hiểu, sau đó chung sống với nhau trên cơ sở tự nguyện từ năm 2003 nhưng đến nay không có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Xét thấy, mặc dù đủ điều kiện kết hôn theo quy định nhưng anh chị không đăng ký kết hôn là vi phạm Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Chị C cho rằng trong quá trình chung sống anh chị có nhiều mâu thuẫn, không hòa hợp, suy nghĩ khác nhau và thường hay cự cãi. Anh P không quan tâm, chăm lo xây dựng gia đình, anh chị đã sống ly thân từ năm 2016 đến nay. Còn anh P vắng mặt, không có ý kiến, không tham gia các phiên họp và phiên tòa sơ thẩm. Hội đồng xét xử xét thấy, quá trình chung sống với nhau chị C và anh P có nhiều mâu thuẫn, bất đồng quan điểm, hay cự cãi, Ban lãnh đạo ấp X cũng xác nhận anh chị ly thân nhiều năm. Từ khi nộp đơn khởi kiện ly hôn đến nay chị C đều không có ý định cùng nhau xây dựng gia đình với anh P, chị vẫn cương quyết yêu cầu Tòa án không công nhận chị và anh P là vợ chồng. Xét thấy, chị C và anh P chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn nên không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng. Hội đồng xét xử căn cứ Điều 14 và Điều 53 Luật Hôn nhân và gia đình tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị C và anh P.

[4] Về con chung, chị C và anh P có 01 người con chung là Trương Thị Huỳnh S, sinh ngày 13/6/2004, hiện chị C đang nuôi dưỡng, con có nguyện vọng sống chung với chị C. Khi ly hôn, chị C yêu cầu tiếp tục nuôi dưỡng con chung. Xét thấy, chị C có đủ điều kiện nuôi con và phù hợp với nguyện vọng của con nên Hội đồng xét xử chấp nhận chị C được tiếp tục nuôi dưỡng con là Trương Thị Huỳnh S. Anh P có quyền, nghĩa vụ tới lui thăm nom, chăm sóc con chung theo quy định của pháp luật, không ai được quyền cản trở. Trường hợp chị C vi phạm nghĩa vụ nuôi con hoặc không còn đủ điều kiện nuôi con thì anh P có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con. Về cấp dưỡng, không ai yêu cầu nên Tòa án không xem xét.

[5] Về tài sản chung và nợ chung, chị C khai chị và anh P không có tài sản chung và nợ chung, không phát sinh tranh chấp, không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.

[6] Về án phí, nguyên đơn chị C phải chịu án phí ly hôn theo quy định là 300.000 đồng.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 266, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Áp dụng các Điều 9, Điều 14, Điều 15, Điều 16, Điều 53, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị Nguyễn Kim C và anh Trương Minh P.

2. Về con chung: Tiếp tục giao cháu Trương Thị Huỳnh S, sinh ngày 13/6/2004 cho chị C được trực tiếp nuôi dưỡng.

Anh P có quyền, nghĩa vụ tới lui thăm nom, chăm sóc con chung theo quy định của pháp luật, không ai được quyền cản trở. Trường hợp chị C vi phạm nghĩa vụ nuôi con hoặc không còn đủ điều kiện nuôi con thì anh P có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con.

Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Về cấp dưỡng, không ai yêu cầu nên Tòa án không xem xét.

3. Về tài sản chung và nợ chung: chị C khai chị và anh P không có tài sản chung và nợ chung, không phát sinh tranh chấp, không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.

4. Về án phí sơ thẩm: Chị C phải chịu án phí ly hôn là 300.000 đồng, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo lai thu số 0005062 ngày 26/10/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Minh.

5. Về quyền kháng cáo: Các đương sự đều vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

150
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, nuôi con chung số 18/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:18/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Minh - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về