Bản án về ly hôn, nuôi con chung số 160/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HẢI HẬU, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 160/2021/HNGĐ-ST NGÀY 29/07/2021 VỀ LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 29 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 127/2021/TLST-HNGĐ ngày 21 tháng 6 năm 2021 về việc “Ly hôn, nuôi con chung khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 89/2021/QĐXXST- HNGĐ ngày 19/7/2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị A, sinh năm 1985; địa chỉ: Xóm 10, xã B, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định.

- Bị đơn: Anh Đỗ Văn C, sinh năm 1983; địa chỉ: Xóm 10, xã B, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định.

Chị A, anh C có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện xin ly hôn ngày 03/6/2021, lời khai trong quá trình tố tụng và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Nguyễn Thị A trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị A và anh Đỗ Văn C tự do tìm hiểu và tự nguyện đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã B, huyện Hải Hậu tỉnh Nam Định vào ngày 06/02/2003. Sau khi cưới, vợ chồng chung sống tại nhà bố mẹ anh C một thời gian thì xây nhà ở riêng và sống hạnh phúc đến năm 2014 phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do tính tình lối sống của hai người không hòa hợp, thường có quan điểm bất đồng. Ngoài ra, do anh C ham chơi lô đề, cờ bạc dẫn đến nợ nần, phá tán tài sản nên vợ chồng đã phải bán nhà để trả nợ cho anh C. Chị đã A đã nhiều lần khuyên bảo, phân tích và tha thứ cho anh C nhưng anh C vẫn chứng nào tật ấy, không thay đổi. Anh C còn có biểu hiện quan hệ ngoại tình với người phụ nữ khác nên chị A đã đưa hai con về nhà bố mẹ đẻ ở, sống ly thân với anh C từ tháng 3 năm 2021. Nay chị A xác định không còn tình cảm với anh C nên chị xin được ly hôn anh C.

Về con chung: Chị A và anh C có 03 con chung là cháu Đỗ Thị Thanh D, sinh ngày 29/3/2004 và cháu Đỗ Thị Ngọc E, sinh ngày 26/9/2006, hai cháu đang ở cùng chị A và cháu Đỗ Bảo H, sinh ngày 28/10/2014 đang ở cùng anh C. Khi ly hôn chị A có nguyện vọng được tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng hai con D và E, còn để anh C tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng cháu H, chị A và anh C không phải cấp dưỡng tiền nuôi con cho nhau.

Về tài sản chung, nghĩa vụ chung về tài sản: Chị A không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai ngày 25/6/2021, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa bị đơn anh Đỗ Văn C trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh C và chị Nguyễn Thị A tự nguyện tìm hiểu, tự nguyện kết hôn và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã B như chị A trình bày là đúng. Vì muốn có tiền để lo cho gia đình nên anh có chơi lô đề nhưng đều bị thua dẫn đến vợ chồng phải bán nhà để trả nợ. Chị A không cảm thông chia sẻ cùng anh C. Anh C khẳng định không có quan hệ ngoại tình với người phụ nữ khác mà chỉ là do chị A hay ghen tuông vô cớ nên cho rằng anh có quan hệ ngoại tình. Tuy vậy, anh nhận thấy cuộc sống vợ chồng vẫn bình thường, anh luôn quan tâm chăm sóc vợ con. Tháng 3 năm 2021 chị A đưa con về nhà bố mẹ đẻ ở từ đó đến nay. Anh C đã nhiều lần khuyên bảo, phân tích để chị A đưa con về để vợ chồng cùng chung sống nhưng chị A không về. Nay anh C xác định tình cảm vợ chồng giữa anh và chị A vẫn còn, vợ chồng vẫn có thể tiếp tục chung sống hạnh phúc, anh mong muốn chị A cho anh cơ hội để vợ chồng đoàn tụ, cùng nhau nuôi dạy con cái trưởng thành. Vì vậy, anh C không nhất trí ly hôn chị A.

Về con chung: Vợ chồng có ba con chung như chị A trình bày là đúng. Nếu ly hôn, anh nhất trí để chị A tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung là cháu D và cháu E. Còn anh C tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng cháu H, hai bên không phải cấp dưỡng tiền nuôi con cho nhau.

Về tài sản chung, nghĩa vụ chung về tài sản: Anh C không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị A và anh Đỗ Văn C là hợp pháp, được xác lập từ ngày 06/02/2003. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2014 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do tính tình, quan điểm sống của hai người không hợp nhau, anh C còn chơi lô đề dẫn đến phá tán tài sản và phải bán nhà trả nợ nên hai người đã sống ly thân từ tháng 3 năm 2021 đến nay.

Xét yêu cầu xin ly hôn của chị A thấy: Khi mâu thuẫn vợ chồng xảy ra, hai bên không thông cảm chia sẻ với nhau và đã không thực hiện nghĩa vụ của vợ chồng phải có nghĩa vụ chung sống cùng nhau, yêu thương, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau. Vì vậy, xét mâu thuẫn vợ chồng giữa chị A và anh C là trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài, nên cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Nguyễn Thị A đối với anh Đỗ Văn C là phù hợp quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[2] Về con chung: Chị Nguyễn Thị A và anh Đỗ Văn C có 03 con chung chưa thành niên là: Đỗ Thị Thanh D, sinh ngày 29/3/2004, Đỗ Thị Ngọc E, sinh ngày 26/9/2006 hiện đang ở cùng chị A và Đỗ Bảo H, sinh ngày 28/10/2014, hiện đang ở cùng anh C. Khi ly hôn, chị A và anh C thống nhất để chị A tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng hai cháu D và cháu E, anh C tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng cháu H, hai bên không phải cấp dưỡng tiền nuôi con cho nhau. Xét nguyện vọng nuôi dưỡng con chung chưa thành niên của chị A và anh C là tự nguyện, phù hợp với nguyện vọng của cháu D và cháu E và phù hợp với hoàn cảnh thực tế hiện nay của chị A và anh C nên cần giao cháu D và cháu E cho chị A, giao cháu H cho anh C nuôi dưỡng đến khi các con chung thành niên và có khả năng lao động hoặc có tài sản để tự nuôi mình. Chị A và anh C không phải cấp dưỡng tiền nuôi con cho nhau và được quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà mình không trực tiếp nuôi dưỡng sau khi ly hôn nhưng không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc nuôi dưỡng con là phù hợp với quy định tại các Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Về tài sản chung, nghĩa vụ chung về tài sản: Do các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[4] Về án phí: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị A phải nộp án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình;

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị A và anh Đỗ Văn C.

2. Về con chung: Giao cháu Đỗ Thị Thanh D, sinh ngày 29/3/2004 và cháu Đỗ Thị Ngọc E, sinh ngày 26/9/2006 cho chị Nguyễn Thị A; giao cháu Đỗ Bảo H, sinh ngày 28/10/2014 cho anh Đỗ Văn C tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục đến khi con chung thành niên và có khả năng lao động hoặc có tài sản để tự nuôi mình. Hai bên không phải cấp dưỡng tiền nuôi con cho nhau, được quyền và có nghĩa vụ thăm nom con chung mình không trực tiếp nuôi dưỡng sau khi ly hôn, không ai được cản trở nhưng không được lạm dụng việc thăm con để gây cản trở hoặc làm ảnh hưởng xấu đến việc nuôi dưỡng con.

3. Về tài sản chung, nghĩa vụ chung về tài sản: Các đương sự không yêu cầu.

4. Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, chị Nguyễn Thị A phải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu số 0002669 ngày 21/6/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hải Hậu. Chị A đã nộp đủ án phí.

5. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị A, bị đơn anh Đỗ Văn C có quyền kháng trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

181
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, nuôi con chung số 160/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:160/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hải Hậu - Nam Định
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về