Bản án về ly hôn, nuôi con chung khi ly hôn số 37/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH SƠN - TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 37/2022/HNGĐ-ST NGÀY 22/09/2022 VỀ LY HÔN, NUÔI CON CHUNG KHI LY HÔN

Ngày 22 tháng 9 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 112/2022/TLST - HNGĐ ngày 19 tháng 5 năm 2022 về việc Ly hôn, nuôi con chung khi ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 54/2022/QĐXXST - HNGĐ ngày 17 tháng 8 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 52/2022/QĐST-DS ngày 05/9/2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Phùng Thị H, sinh năm 1978.

HKTT: Khu Đồng Lương, xã T, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Đình H, sinh năm 1980.

HKTT: Khu Đồng Lương, xã T, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ.

(Chị Phùng Thị H có đơn đề nghị xét xử vắng mặt đề ngày 22/8/2022, anh Nguyễn Đình H vắng mặt không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 15/5/2022, bản tự khai ngày 30/5/2022 nguyên đơn chị Phùng Thị H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Phùng Thị H và anh Nguyễn Đình H xây dựng gia đình với nhau năm 2007, làm thủ tục đăng ký kết hôn tại UBND xã T, huyện Thanh Sơn. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống cùng với bố mẹ anh H một thời gian, sau đó vợ chồng ra ở riêng. Đến khoảng năm 2011 mâu thuẫn vợ chồng phát sinh, nguyên nhân chính là do vợ chồng không cùng quan điểm trong cách sống, trong làm ăn kinh tế nên có lời qua tiếng lại dẫn đến cãi nhau, xúc phạm nhau. Mặt khác vợ chồng không tin tưởng vào tình cảm của nhau, nhiều khi anh H có ghen tuông vô cớ, uống rượu về nhà gây sự chửi mắng, đánh chị H, đập phá tài sản của chị H, bản thân chị H với gia đình nhà chồng cũng không được hòa thuận, êm ấm. Khi mâu thuẫn vợ chồng xẩy ra thì bố mẹ hai bên gia đình có biết, có khuyên bảo, nhưng mâu thuẫn vợ chồng vẫn không tự khắc phục được. Vợ chồng tuy sống cùng nhà nhưng không có sự quan tâm, chia sẻ gì với nhau, ai có việc người làm, kinh tế độc lập không liên quan gì đến nhau. Nay chị H xác định tình cảm với anh H không còn, hôn nhân không đem lại hạnh phúc nên chị đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn để ổn định cuộc sống.

Về con chung: Chị Phùng Thị H trình bày vợ chồng có 02 con chung là cháu Nguyễn Trung Kiên, sinh ngày 30/7/2008 và cháu Nguyễn Thành Long, sinh ngày 20/11/2010. Hiện các con chung đang ở với vợ chồng chị. Ly hôn chị H xin được trực tiếp nuôi 02 con chung đến khi các cháu thành niên, chị không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con chung, hiện nay chị H đang làm công chức tại UBND xã T có thu nhập ổn định đảm bảo việc nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ chung: Chị Phùng Thị H không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.

Về công sức đóng góp và tư trang riêng: Chị Phùng Thị H trình bày vợ chồng không có, ly hôn chị không có đề nghị gì.

Phía bị đơn anh Nguyễn Đình H: Tòa án triệu tập, niêm yết các văn bản tố tụng hợp lệ nhiều lần nhưng anh H không đến Tòa án để làm việc, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, không tham gia hòa giải và tham gia phiên tòa. Trong quá trình làm việc chị H có bảo anh H đến Tòa án nhưng anh không đến, sau đó Tòa án có báo gọi bằng điện thoại cho anh H nhưng anh cũng không đến Tòa án làm việc, Tòa án đã đến gia đình nhà bố mẹ đẻ anh H là ông Nguyễn Đình Hanh và bà Đỗ Thị Hùng, tuy nhiên ông bà đều từ chối không nhận thay các văn bản tố tụng của Tòa án cho anh H, ông bà cũng không hợp tác với Tòa án. Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã xác minh tại địa phương về việc đăng ký hộ khẩu thường trú, hoàn cảnh gia đình, tình trạng hôn nhân giữa chị H với anh H. Theo kết quả xác minh ngày 05/8/2022 tại Công an xã T, huyện Thanh Sơn xác định anh H có đăng ký hộ khẩu thường trú tại khu Đồng Lương, xã T, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ, anh H là chủ hộ. Tại biên bản xác minh trưởng khu hành chính khu Đồng Lương, xã T, huyện Thanh Sơn cũng xác định chị H và anh H kết hôn, xây dựng gia đình với nhau năm 2007, sau khi kết hôn anh chị chung sống cùng với gia đình bố mẹ anh H tại xã T một thời gian, sau đó vợ chồng ra ở riêng. Trong cuộc sống hàng ngày vợ chồng chị H và anh H có phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân chủ yếu do vợ chồng không hợp nhau, bất đồng quan điểm trong cuộc sống hàng ngày, trong kinh tế gia đình, tính cách vợ chồng không được hòa thuận từ đó dẫn đến cãi nhau, xúc phạm nhau. Bản thân anh H thì hay chơi bời, rượu chè, rất nhiều lần vợ chồng xẩy ra đánh nhau, chị H là người bị đánh, nhiều khi đêm hôn bị anh H chửi mắng đuổi ra khỏi nhà, nếu không đi ra khỏi nhà thì sẽ bị anh hành hung, uy hiếp về tinh thần, tính mạng. Hiện tại vợ chồng vẫn sống cùng nhà nhưng ăn riêng, ở riêng, kinh tế riêng, không ai còn quan tâm đến ai. anh H thì hành nghề lái xe, đi làm nhưng vẫn có về nhà để nghỉ ngơi. Khi mâu thuẫn vợ chồng xẩy ra khu hành chính cũng đã đến để khuyên bảo, nhắc nhở vợ chồng chị H, nhưng mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, thực tế hôn nhân giữa chị H và anh H không có, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát:

Về việc tuân theo pháp luật: Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án Thẩm phán đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa thực hiện đúng quy định của pháp luật, không có vi phạm gì. Các đương sự: Nguyên đơn đã chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bị đơn chưa chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án đã triệu tập, niêm yết các văn bản tố tụng hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn cố tình vắng mặt không có lý do, nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn là đúng theo quy định của pháp luật.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Phùng Thị H, xử cho chị H được ly hôn anh Nguyễn Đình H. Về con chung: chị H và anh H có 02 con chung là cháu Nguyễn Trung Kiên, sinh ngày 30/7/2008 và cháu Nguyễn Thành Long, sinh ngày 20/11/2010, hiện hai con chung đều ở với anh chị, khi ly hôn chị H xin được nuôi hai con chung đến khi các cháu thành niên, chị tự nguyện không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con chung. Các vấn đề khác đương sự không yêu cầu nên không xem xét. Về án phí: chị H phải chịu án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Ngày 18/5/2022 chị Phùng Thị H nộp đơn khởi kiện về việc ly hôn, nuôi con chung đối với anh Nguyễn Đình H, đây là tranh chấp Hôn nhân gia đình được Tòa án nhân dân huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại Điều 28, Điều 35, Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Về sự vắng mặt của các đương sự: Nguyên đơn chị Phùng Thị H có đơn đề nghị xét xử vắng mặt ngày 22/8/2022. Anh Nguyễn Đình H đã được khu hành chính tống đạt văn bản tố tụng nhưng không đến Tòa án để làm việc, bản thân chị H cũng trực tiếp thông báo cho anh H và anh H cũng nói với chị H đã nhận được giấy báo Tòa án, Tòa án cũng đã thông tin bằng điện thoại để báo anh về Tòa án làm việc nhưng anh H không đến, Tòa án kết hợp với khu hành chính, đến gia đình bố mẹ anh H là ông Nguyễn Đình Hanh và bà Đỗ Thị Hùng để làm việc, lấy lời khai, tống đạt các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật, tuy nhiên phía bố mẹ anh H không hợp tác, không đồng ý để Tòa án làm việc, lấy lời khai, không có văn bản trình bày ý kiến, không nhận các văn bản tố tụng. Bản thân anh H không đến Tòa án làm việc là không thực hiện quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 72 Bộ luật Tố tụng dân sự. Như vậy anh H có biết việc chị H làm đơn xin ly hôn, có biết việc Tòa án đến gia đình để giải quyết ly hôn nhưng anh cố tình không hợp tác, vì vậy Tòa án đã lập biên bản về việc không tống đạt được các văn bản tố tụng và tiến hành niêm yết công khai các văn bản tố tụng theo quy định tại Điều 179 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Đến khi mở phiên tòa anh H vẫn vắng mặt không có lý do nên đây là vụ án không thể tiến hành hòa giải được, vì vậy Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt chị H, anh H là phù hợp quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Phùng Thị H và anh Nguyễn Đình H đăng ký kết hôn năm 2007 tại UBND xã T, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ, đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn vợ chồng ở chung với gia đình bố mẹ anh H một thời gian, sau đó vợ chồng làm nhà ra ở riêng. Trong cuộc sống vợ chồng hay xẩy ra mâu thuẫn, nguyên nhân chính là do hai vợ chồng bất đồng quan điểm, vợ chồng không tin tưởng nhau, thường xuyên xẩy ra cãi nhau. Bản thân anh H thì mải chơi, không tập trung làm ăn kinh tế , không có trách nhiệm với gia đình, nhiều khi anh H uống rượu về nhà chửi mắng, đánh đập chị H. Kết quả xác minh, thu thập tài liệu chứng cứ về tình trạng hôn nhân tại địa phương cũng xác định vợ chồng chị H và anh H có mâu thuẫn, nguyên nhân chủ yếu từ phía anh H, thực tế hôn nhân của anh chị đã không hạnh phúc với nhau một thời gian dài. Tuy vợ chồng sống chung một nhà nhưng ăn uống, kinh tế, công việc tách bạch, không ai liên quan đến ai, vợ chồng không quan tâm đến nhau. Về phía anh H đã được Tòa án triệu tập, niêm yết các văn bản tố tụng nhiều lần đến Tòa án để tạo điều kiện cho hai bên hòa giải đoàn tụ nhưng anh H vẫn vắng mặt và cũng không có mặt tại phiên tòa để xét xử, điều đó thể hiện anh H không còn tha thiết đến hạnh phúc gia đình, không có thiện chí hòa giải đoàn tụ. Hội đồng xét xử thấy rằng: Tình trạng hôn nhân giữa chị H và anh H đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, giữa chị H và anh H một thời gian dài không thực hiện quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với nhau. Việc chị H xin ly hôn với anh H là có cơ sở nên được Hội đồng xét xử chấp nhận là phù hợp với khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3] Về con chung: Xét về nguyện vọng nuôi hai con chung của chị H là chính đáng đáng vì con chung chủ yếu do chị H chăm sóc giáo dục, anh H không có trách nhiệm với gia đình và con chung. Hiện nay chị H đang làm công chức tại UBND xã T, thu nhập ổn định, đảm bảo cuộc sống cho các con. Xét thấy tại bản tự khai ngày 30/5/2022 (BL 28+29) cháu Nguyễn Trung Kiên và cháu Nguyễn Thành Long đều có nguyện vọng xin được ở với mẹ. Để đảm bảo quyền lợi và sự phát triển tốt nhất về mọi mặt cho con chưa thành niên khi bố mẹ ly hôn, cần giao cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Trung Kiên, sinh ngày 30/7/2008 và cháu Nguyễn Thành Long, sinh ngày 20/11/2010 cho đến khi các cháu thành niên tự lực được. anh H không phải cấp dưỡng nuôi con chung vì chị H không có yêu cầu là phù hợp với thực tế và phù hợp với Điều 81 Luật hôn nhân gia đình.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Chị Phùng Thị H không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết. Về công sức đóng góp, tư trang riêng: chị H xác định không có, ly hôn chị không đề nghị gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Anh Nguyễn Đình H không đến Tòa án làm việc nên không có quan điểm gì về các vấn đề trên, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp nên cần chấp nhận.

[6] Về án phí: Chị Phùng Thị H phải nộp tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 51, Khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự. Điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Phùng Thị H đối với anh Nguyễn Đình H. Xử cho chị Phùng Thị H được ly hôn anh Nguyễn Đình H.

2. Về con chung: Giao 02 con chung của anh chị là cháu Nguyễn Trung Kiên, sinh ngày 30/7/2008 và cháu Nguyễn Thành Long, sinh ngày 20/11/2010 cho chị Phùng Thị H được tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng, kể từ tháng 9/2022 cho đến khi các con chung thành niên. anh H không phải cấp dưỡng nuôi con chung vì chị H tự nguyện không yêu cầu.

Sau khi ly hôn anh Nguyễn Đình H không trực tiếp nuôi dưỡng con chung có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Phùng Thị H phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Xác nhận chị H đã nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí theo Biên lai thu số AA/2020/0006819 ngày 19/5/2022 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ. Nay chuyển thành án phí.

"Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 - Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 luật thi hành án dân sự."

4. Về quyền kháng cáo: Các đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại trụ sở UBND xã nơi các đương sự thường trú để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

86
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, nuôi con chung khi ly hôn số 37/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:37/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Sơn - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về