Bản án về ly hôn, nuôi con chung khi ly hôn số 14/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH SƠN, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 14/2022/HNGĐ-ST NGÀY 06/05/2022 VỀ LY HÔN, NUÔI CON CHUNG KHI LY HÔN

Ngày 06 tháng 5 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 30/2022/TLST - HNGĐ ngày 21 tháng 02 năm 2022 về việc Ly hôn, nuôi con chung khi ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 21/2022/QĐXXST - HNGĐ ngày 14 tháng 4 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số: 23/2022/QĐST - DS ngày 26 tháng 4 năm 2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Đinh Thị Q, sinh năm 1999.

HKTT: Xóm N, xã YL, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ.

2. Bị đơn: Anh Đinh Công Kh, sinh năm 1990.

HKTT: Xóm N, xã YL, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ.

3. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn: Ông Bùi Đức D - Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Phú Thọ. (Chị Q có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, anh K vắng mặt không có lý do;

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Ông Dũng có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 18/02/2022, bản tự khai ngày 01/3/2022 và biên bản phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải tại Tòa án nguyên đơn chị Đinh Thị Q trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Q và anh K kết hôn với nhau năm 2018, làm thủ tục đăng ký kết hôn tại UBND xã Yên Lãng, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống cùng với bố mẹ anh K tại xã Yên Lãng, huyện Thanh Sơn. Trong cuộc sống mâu thuẫn vợ chồng phát sinh, nguyên nhân chính là do vợ chồng không cùng quan điểm trong cách sống, trong làm ăn kinh tế nên có lời qua tiếng lại dẫn đến cãi nhau, xúc phạm nhau. Mặt khác vợ chồng không tin tưởng vào tình cảm của nhau, nhiều khi ghen tuông anh K có đánh chị Q, bản thân chị Q với gia đình nhà chồng cũng không được hòa thuận, êm ấm. Khi mâu thuẫn vợ chồng xẩy ra thì bố mẹ hai bên gia đình có biết, có khuyên bảo, nhưng mâu thuẫn vợ chồng vẫn xẩy ra không tự khắc phục được. Chính vì cuộc sống gia đình căng thẳng nên vợ chồng sống ly thân từ khoảng tháng 10 năm 2019 đến nay mỗi người một nơi, không ai còn quan tâm đến nhau, chị Q dọn đồ về ở chung với bố mẹ đẻ tại Xóm Né, xã Yên Lãng. Nay chị Q xác định tình cảm với anh K không còn, hôn nhân không đem lại hạnh phúc nên chị đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn để ổn định cuộc sống.

Về con chung: Chị Đinh Thị Q trình bày vợ chồng có 01 con chung là cháu Đinh Thị Q Anh, sinh ngày 05/8/2018, hiện nay con chung đang ở với anh K và ông bà nội từ khi vợ chồng sống ly thân tháng 10 năm 2019. Khi ly hôn chị Q đồng ý để cho anh K được trực tiếp nuôi dưỡng con chung đến khi cháu thành niên. Từ khi ly thân chị Q đi làm ăn nên cũng ít có thời gian về thăm và chơi với con chung, con chung chủ yếu do anh K và ông bà nội chăm sóc, nuôi dưỡng, ăn học.

Về tài sản chung, nợ chung, công sức đóng góp và tư trang riêng: Chị Đinh Thị Q trình bày vợ chồng không có, ly hôn chị không có đề nghị gì.

Phía bị đơn, anh Đinh Công K đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng không đến Tòa án để làm việc, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và tham gia phiên tòa.

Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã xác minh tại địa phương về tình trạng hôn nhân giữa chị Q với anh K, lấy lời khai của bố đẻ anh K. Theo kết quả xác minh ngày 28/3/2022 tại Công an xã Yên Lãng, huyện Thanh Sơn xác định anh K có đăng ký hộ khẩu thường trú tại xóm Né, xã Yên Lãng, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ. Tại biên bản lấy lời khai ngày 28/3/2022 của ông Đinh Công Dậu là bố đẻ anh K cũng xác định như sau: Anh K và chị Q xây dựng gia đình với nhau năm 2018, đăng ký kết hôn tại UBND xã Yên Lãng, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ. Trước khi đi đến hôn nhân thì anh chị được tự do tìm hiểu tự nguyện, việc kết hôn không bị gia đình cấm đoán, ép buộc. Sau khi kết hôn vợ chồng anh K, chị Q chung sống cùng với gia đình nhà ông tại xóm Né, xã Yên Lãng. Thời gian mới kết hôn tình cảm vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc, đến năm 2019 mâu thuẫn vợ chồng phát sinh, lý do là vợ chồng không hợp nhau, bất đồng quan điểm trong cuộc sống, trong kinh tế gia đình, vợ chồng có ghen tuông chuyện tình cảm, không tin tưởng vào tình cảm của nhau, vợ chồng anh K, chị Q thường xuyên xẩy ra cãi nhau. Mặt khác giữa chị Q với gia đình nhà ông không được tình cảm, nhiều việc bằng mặt nhưng không bằng lòng hay để ý nhau nên cuộc sống gia đình không thoải mái. Anh K và chị Q sống ly thân từ năm 2019 đến nay hơn ba năm, chị Q dọn về nhà bố mẹ đẻ ở xóm Né, xã Yên Lãng để ở, tuy nhà chị Q và gia đình nhà ông cùng xóm, gần nhà nhau nhưng chị Q không bao giờ sang nhà ông để hỏi thăm con cái.

Khi mâu thuẫn vợ chồng anh K và chị Q xẩy ra thì cả anh chị đều có nói cho ông được biết, bản thân ông và những người thân trong gia đình có khuyên bảo rất nhiều lần để vợ chồng bỏ qua mâu thuẫn, về chung sống với nhau nuôi dạy con cái nhưng cả anh K và chị Q đều cố chấp, không về chung sống với nhau nữa. Cuộc sống hôn nhân giữa anh K và chị Q không hạnh phúc, mâu thuẫn kéo dài. Nay chị Q có đơn ly hôn anh K quan điểm của ông là mong muốn các con suy nghĩ lại để về chung sống với nhau, nếu chị Q cương quyết ly hôn thì đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Về con chung: Ông Dậu trình bày vợ chồng anh K và chị Q có một con chung là cháu Đinh Thị Q Anh, sinh ngày 05/8/2018, hiện cháu đang ở với anh K và gia đình nhà ông từ khi sinh ra, khi vợ chồng anh chị ly thân thì cháu được gần một tuổi, đến nay cháu được gần bốn tuổi. Chị Q không có trách nhiệm gì với con chung từ khi vợ chồng sống ly thân năm 2019 đến nay. Quan điểm của ông là con chung đang ở với anh K và gia đình từ nhỏ đã quen cứ để anh K tiếp tục nuôi dưỡng, khi anh K điện về cho ông cũng nói là nguyện vọng xin được nuôi con chung đến khi thành niên. Mặc dù anh K có đi làm ăn, nhưng anh vẫn thu xếp thời gian về chơi thăm gia đình, con cái, khi không về được thì anh gọi điện, anh đi làm có gửi tiền về để gia đình đóng tiền học, mua đồ dùng sinh hoạt cho cháu. Bản thân vợ chồng ông có nhà cửa ổn định, rộng rãi, ông bà đều còn khỏe mạnh, làm nông nghiệp, chăn nuôi ở nhà, không có nợ nần gì, nếu Tòa án giao cháu Anh cho anh K nuôi dưỡng thì ông và gia đình sẽ cùng có trách nhiệm chăm sóc, nuôi nấng, đảm bảo về kinh tế, môi trường sống tốt nhất cho cháu.

Về tài sản chung, nợ chung, công sức đóng góp và tư trang riêng: Ông Dậu trình bày anh K và chị Q sau khi kết hôn có chung sống cùng với gia đình ông một thời gian sau đó lại đi làm thuê, vợ chồng còn trẻ mới xây dựng gia đình nên phụ thuộc chủ yếu vào gia đình ông, sau đó mâu thuẫn dẫn đến việc ly thân mỗi người một nơi, nên vợ chồng không tạo lập được tài sản chung gì, công nợ chung, công sức đóng góp, tư trang riêng không có.

Hiện nay anh K đi làm ăn xa nhà, còn cụ thể làm ăn ở đâu, địa chỉ cụ thể thế nào thì ông Dậu không biết, ông có hỏi nhưng anh K cũng không nói. Khi đi làm ăn thì anh K có thường xuyên liên lạc về cho gia đình, cụ thể là gọi điện cho ông để trò chuyện, hỏi thăm sức khỏe bố mẹ, việc học hành của con cái. Ông Dậu có nhận được thông báo về việc thụ lý vụ án, các văn bản tố tụng khác của Tòa án, khi anh K gọi điện về thì ông cũng có nói là chị Q làm đơn xin ly hôn, xem thu xếp về để giải quyết thì anh K có nói là vợ chồng ly thân đã lâu, tình cảm không còn được như trước đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn vắng mặt. Về con chung: Anh K có nói lại với ông là khi ly hôn nguyện vọng xin được nuôi cháu Đinh Thị Q Anh đến khi thành niên, không yêu cầu chị Q cấp dưỡng. Còn về tài sản chung, nợ chung và các vấn đề khác anh K nói với ông là vợ chồng không có, hai bên không có vướng mắc gì. Hiện nay do công việc đặc thù của anh bận rộn anh K không thể thu xếp về để giải quyết ly hôn được, anh có nói lại với ông là nhận hộ các văn bản tố tụng, xong thông báo đến anh để được biết.

Quan điểm của ông Bùi Đức Dũng - Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Phú Thọ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho chị Đinh Thị Q trình bày: Chị Đinh Thị Q kết hôn với anh Đinh Công K, hai bên làm thủ tục đăng ký kết hôn tại UBND xã Yên Lãng. Trong cuộc sống chung chị Q xác định vợ chồng có mâu thuẫn, chị không còn tình cảm với anh Đinh Công K, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, qua tài liệu xác minh tại gia đình anh K, tại địa phương cũng thể hiện việc chị Q và anh K sống không có hạnh phúc, vợ chồng ly thân đã lâu. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện ly hôn của chị Đinh Thị Q, xử cho chị Q được ly hôn anh Đinh Công K. Về con chung: Đề nghị Hội đồng xét xử giao con chung là cháu Đinh Thị Q Anh, sinh ngày 05/8/2018 cho anh Đinh Công K được trực tiếp nuôi dưỡng đến khi con chung thành niên, chị Q không phải cấp dưỡng nuôi con chung vì anh K không yêu cầu. Về tài sản chung, nợ chung, công sức đóng góp, tư trang riêng: Chị Q xác định vợ chồng không có, ly hôn chị không có đề nghị gì nên không xem xét. Anh K không đến Tòa án làm việc nên không có quan điểm gì về các vấn đề trên.

Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát:

Về việc tuân theo pháp luật: Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án Thẩm phán đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa thực hiện đúng quy định của pháp luật, không có vi phạm gì. Các đương sự: Nguyên đơn đã chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt đề ngày 27/4/2022. Bị đơn chưa chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt không có lý do nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn là đúng theo quy định của pháp luật.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Đinh Thị Q, xử cho chị Q được ly hôn anh Đinh Công K. Về con chung: Giao cháu Đinh Thị Q Anh, sinh ngày 05/8/2018 cho anh K được tiếp tục nuôi dưỡng đến khi thành niên. Anh K không yêu cầu chị Q cấp dưỡng nuôi con chung. Các vấn đề khác đương sự không yêu cầu nên không xem xét. Về án phí: Chị Đinh Thị Q phải chịu án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Ngày 18/02/2022 chị Đinh Thị Q nộp đơn khởi kiện về việc ly hôn, nuôi con chung với anh Đinh Công K, đây là tranh chấp Hôn nhân gia đình được Tòa án nhân dân huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại Điều 28, Điều 35, Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Về sự vắng mặt của các đương sự: Chị Đinh Thị Q có đơn đề nghị xét xử vắng mặt ngày 27/4/2022, anh Đinh Công K được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Tòa án đã có công văn gửi đến Cục quản lý xuất nhập cảnh - Bộ công an để xác định anh K có làm thủ tục xuất cảnh ra nước ngoài không, tuy nhiên phía Cục quản lý xuất nhập cảnh - Bộ công an cung cấp thông tin là anh K hiện tại không làm thủ tục xuất cảnh ra nước ngoài. Thông báo thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng khác gia đình anh K đã nhận, đều có thông báo cho anh K nhưng anh K không đến Tòa án làm việc nên đây là vụ án không thể tiến hành hòa giải được, vì vậy Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt chị Q, anh K là phù hợp quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Đinh Thị Q và anh Đinh Công K đăng ký kết hôn tháng 7 năm 2018 tại UBND xã Yên Lãng, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn vợ chồng ở chung với gia đình bố mẹ đẻ anh K tại xóm Né, xã Yên Lãng, huyện Thanh Sơn. Thời gian đầu vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc, tuy nhiên đến khoảng năm 2019 vợ chồng có phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân chính là do vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm trong cuộc sống, trong kinh tế gia đình, từ đó lời qua tiếng lại dẫn đến cãi nhau, sứt mẻ tình cảm. Mặt khác, giữa chị Q với gia đình nhà chồng tình cảm không được êm ấm, nhiều việc bằng mặt nhưng không bằng lòng, vợ chồng sống ly thân được hơn ba năm nay không ai còn quan tâm đến nhau, nội dung này đã được nguyên đơn trình bày tại bản tự khai, kết quả lấy lời khai của bố đẻ anh K cũng thể hiện mâu thuẫn vợ chồng đã kéo dài trầm trọng, không tự khắc phục được. Anh K không đến Tòa án làm việc nên không có quan điểm trình bày gì về việc ly hôn, tuy nhiên anh K có nói với gia đình về việc hôn nhân không hạnh phúc. Kết quả thu thập chứng cứ tại khu hành chính xóm Né, xã Yên Lãng và ông Đinh Công Dậu bố đẻ anh K cũng xác định: Vợ chồng anh K, chị Q có mâu thuẫn dẫn đến cãi nhau, hai bên không ai chịu nhường nhịn, mâu thuẫn đã lâu mà hai bên không gàn gắn được, thực tế anh chị đã ly thân từ năm 2019 đến nay là hơn ba năm không còn chung sống với nhau nữa, không thực hiện quyền và nghĩa vụ của vợ chồng với nhau. Hội đồng xét xử thấy rằng: Tình trạng hôn nhân giữa anh K và chị Q đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Việc chị Q xin ly hôn với anh K là có cơ sở nên được Hội đồng xét xử chấp nhận là phù hợp với khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3] Về con chung: Chị Q và anh K có một con chung là cháu Đinh Thị Q Anh, sinh ngày 05/8/2018, hiện con chung đang ở với anh K và ông bà nội tại xóm Né, xã Yên Lãng từ khi vợ chồng sống ly thân. Khi ly hôn quan điểm chị Q đồng ý để anh K được nuôi con chung là cháu Đinh Thị Q Anh đến khi con chung thành niên, vì chị Q đi làm công nhân nay đây mai đó, không có nhà cửa chỗ ăn ở ổn định. Anh K không đến Tòa án làm việc nên không có quan điểm gì về con chung, tuy nhiên khi anh K có gọi điện về gia đình thì có nói khi ly hôn nguyện vọng xin được nuôi cháu Đinh Thị Q Anh. Hội đồng xét xử thấy rằng: Từ khi chị Q và anh K sống ly thân, con chung vẫn ở với anh K, được anh và ông bà nội chăm sóc, nuôi dưỡng, học hành đầy đủ, bản thân anh K đi làm ăn nhưng thỉnh thoảng vẫn thu xếp thời gian về nhà chơi, vẫn thường xuyên gọi điện hỏi thăm sức khỏe con, anh cũng gửi tiền về để bố mẹ nuôi con, lời khai của bố đẻ anh K và chính quyền địa phương cũng xác nhận như vậy, điều đó thể hiện anh K có trách nhiệm với con chung, mặt khác phía gia đình ông Dậu cũng khẳng định sẽ cùng anh K, tạo điều kiện tốt nhất để chăm sóc cháu Anh. Về phía chị Q mặc dù chưa ly hôn nhưng chị Q không có trách nhiệm gì với con chung, nhà chị ở gần với gia đình anh K nhưng không sang thăm hỏi, để ý gì đến con, không hỗ trợ anh K và ông bà nội việc chăm sóc con, chị Q cũng khẳng định chị không có điều kiện đảm bảo cho việc nuôi con chung. Vì vậy để đảm bảo quyền lợi cho con chung, cháu có điều kiện tốt nhất để học hành và phát triển toàn diện cần giao cho Khoa được tiếp tục nuôi cháu Đinh Thị Q Anh đến khi thành niên, chị Q không phải cấp dưỡng nuôi con chung vì anh K không có yêu cầu là phù hợp với thực tế và phù hợp với Điều 81 Luật hôn nhân gia đình.

[4] Về tài sản chung, nợ chung, công sức đóng góp và tư trang riêng: Chị Đinh Thị Q xác định vợ chồng không có, ly hôn chị không có đề nghị gì. Anh K không đến Tòa án làm việc nên không có quan điểm gì về các vấn đề trên nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Quan điểm của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn, đại diện Viện kiểm sát là phù hợp nên cần chấp nhận.

[6] Về án phí: Chị Đinh Thị Q phải nộp tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 51, Khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Đinh Thị Q đối với anh Đinh Công K. Xử cho chị Đinh Thị Q được ly hôn anh Đinh Công K.

2. Về con chung: Giao con chung của anh chị là cháu Đinh Thị Q Anh, sinh ngày 05/8/2018 cho anh Đinh Công K được tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con chung thành niên. Anh K không yêu cầu chị Q phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Sau khi ly hôn chị Đinh Thị Q có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Đinh Thị Q phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Xác nhận chị Q đã nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí theo Biên lai thu số: AA/2020/0006716 ngày 21/02/2022 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ. Nay chuyển thành án phí.

"Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 - Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 luật thi hành án dân sự."

4. Về quyền kháng cáo: Các đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại trụ sở UBND xã nơi các đương sự thường trú để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ xét xử phúc thẩm

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

265
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, nuôi con chung khi ly hôn số 14/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:14/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Sơn - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 06/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về