Bản án về ly hôn (không hòa hợp) số 163/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TUYÊN QUANG, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 163/2022/HNGĐ-ST NGÀY 08/09/2022 VỀ LY HÔN

Ngày 08 tháng 9 năm 2022 tại Trụ sở Toà án nhân dân thành phố Tuyên Quang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 119/2022/ TLST-HNGĐ ngày 04/7/2022 về việc Tranh chấp hôn nhân và gia đình, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 36/2022/QĐST- HNGĐ, ngày 03/8/2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Đỗ Thị L, sinh năm 1998.

Địa chỉ: Khu 4, xã N, huyện T, tỉnh Phú Thọ.

- Bị đơn: Anh Nguyễn T, sinh năm 1998.

Địa chỉ: Tổ dân phố 16, phường Đ, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang.

Chị L có mặt, anh T vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, bản tự khai, nguyên đơn chị Đỗ Thị L trình bày:

Chị và anh Nguyễn T có thời gian tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã N, huyện T, tỉnh Phú Thọ ngày 11/10/2021. Sau khi đăng ký kết hôn, chị và anh T chưa tổ chức cưới và sống chung với nhau nhưng chị thấy giữa chị và anh T không hòa hợp, anh T không tu chí làm ăn, nếu tiếp tục quan hệ hôn nhân sẽ không có hạnh phúc. Chị được biết, hiện anh T đi làm ăn xa, thỉnh thoảng mới về nhà tại gia đình ở tổ dân phố 16, phường Đ, thành phố T. Còn chị vẫn đang ở bố mẹ đẻ tại xã N, huyện T, tỉnh Phú Thọ, trong thời gian vừa qua chị và anh T không còn liên lạc gì với nhau nữa. Vì vậy chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nguyễn T.

Về con chung, tài sản chung và vay nợ chung: Chị L xác nhận chị và anh T không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Toà án đã gửi thông báo về việc vụ thụ lý vụ án, thông báo hoà giải và đối chiếu chứng cứ cho anh Nguyễn T nhưng anh T đều vắng mặt và không gửi văn bản ghi ý kiến của mình về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, do vậy Tòa án không mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải được. Tòa án đã tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ để giải quyết vụ án theo thủ tục chung.

Kết quả thu thập chứng cứ thể hiện: Chị Đỗ Thị L và anh Nguyễn T có đăng ký kết hôn năm 2021. Anh T có đăng ký hộ khẩu thường trú tại tổ dân phố 16, phường Đ, thành phố Tuyên Quang. Chị L và anh T chưa tổ chức lễ cưới và chưa về chung sống với nhau Chị L và anh T không có tài sản chung, không có vay nợ chung.

Tại phiên tòa, chị Đỗ Thị L có đơn xin vắng mặt, chị L vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và ý kiến như đã trình bày, chị đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nguyễn T; về con chung, tài sản chung, vay nợ chung không có nên chị L không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tòa án đã triệu tập hợp lệ lần thứ hai đối với anh Nguyễn T đến tham gia tố tụng nhưng anh T vẫn vắng mặt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang phát biểu về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự: Từ khi thụ lý đơn và trong quá trình giải quyết vụ án Thẩm phán đã thực hiện đảm bảo đúng theo quy định tại Điều 48 Bộ luật tố tụng dân sự; Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử: Hội đồng xét xử độc lập, chỉ tuân theo pháp luật, trình tự tại phiên tòa thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; Thư ký phiên tòa thực hiện đúng quy định của pháp luật; Việc chấp hành pháp luật của đương sự: Nguyên đơn đã thực hiện đúng quy định tại Điều 70 và Điều 71 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn không thực hiện đúng quy định tại Điều 70 và Điều 72 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về việc giải quyết vụ án: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Đỗ Thị L về việc xin ly hôn anh Nguyễn T.

Về con chung, tài sản chung, vay nợ chung: Chị Đỗ Thị L xác nhận chị và anh Nguyễn T không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về án phí: Chị Đỗ Thị L phải nộp án phí hôn nhân và gia đình theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho nguyên đơn và bị đơn. Ngày 04/7/2022, Toà án thụ lý vụ án và gửi thông báo thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cho anh Nguyễn T bằng hình thức gửi bảo đảm qua đường bưu điện và giao cho bố đẻ anh T nhận thay (ông Nguyễn C đã cam kết giao lại các văn bản này cho anh T) nhưng anh T không đến Toà án tham gia tố tụng trong các phiên họp, phiên hòa giải và phiên tòa. Căn cứ điểm b, khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự. Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt anh Nguyễn T.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Đỗ Thị L và anh Nguyễn T kết hôn trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã N, huyện T, tỉnh Phú Thọ ngày 11/10/2021. Như vậy quan hệ hôn nhân giữa chị L và anh T là hợp pháp. Tuy nhiên, sau khi đăng ký kết hôn, chị L và anh T đã phát sinh mâu thuẫn và không tổ chức đám cưới nữa, mỗi người sống một nơi, không còn quan tâm đến nhau. Xét thấy, mục đích hôn nhân nhằm xác lập quan hệ vợ chồng chung sống hòa thuận, hạnh phúc, bền vững đã không thể đạt được. Vì vậy, HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Đỗ Thị L xin ly hôn anh Nguyễn T.

[3] Về con chung; tài sản chung và vay nợ chung: Chị Đỗ Thị L xác nhận chị và anh Nguyễn T không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết, vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4] Về án phí:

Chị Đỗ Thị L phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Anh Nguyễn T không phải chịu án phí.

[5] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ:

- Các Điều 28; 147; khoản 2 Điều 227; 228; 266; 271; 273 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Các Điều 51; 56; 58 Luật Hôn nhân và gia đình.

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Đỗ Thị L về việc xin ly hôn.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Đỗ Thị L được ly hôn anh Nguyễn T.

2. Về con chung, tài sản chung và vay nợ chung: Chị Đỗ Thị L và anh Nguyễn T không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

3. Về án phí: Chị Đỗ Thị L phải nộp 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp là 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0000377 ngày 04/7/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang. Chị L đã nộp đủ án phí.

Anh Nguyễn T không phải chịu án phí.

4. Về quyền kháng cáo: Chị Đỗ Thị L và anh Nguyễn T có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

25
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn (không hòa hợp) số 163/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:163/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tuyên Quang - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về