TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SƠN DƯƠNG, TỈNH TUYÊN QUANG
BẢN ÁN 84/2022/HNGĐ-ST NGÀY 22/09/2022 VỀ LY HÔN, GIAO NUÔI CON CHUNG
Ngày 22 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Sơn Dương mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 247/2022/TLST- HNGĐ, ngày 23 tháng 6 năm 2020 về việc “Tranh chấp hôn nhân và gia đình”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 73/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 19 tháng 8 năm 2022; quyết định hoãn phiên tòa số 53/2022/QĐST- HNGĐ, ngày 05 tháng 9 năm 2022 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Nịnh Thị Đ., sinh năm 1997 Địa chỉ: Thôn Đ, xã Đ, huyện S, tỉnh Tuyên Quang.
(Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt) - Bị đơn: Anh Dương Văn M., sinh năm 1992 Địa chỉ: Thôn Đ, xã Đ, huyện S, tỉnh Tuyên Quang.
(Vắng mặt tại phiên tòa)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Về quan hệ hôn nhân: Chị Nịnh Thị Đ. và anh Dương Văn M. kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, tự do tìm hiểu, có tổ chức cưới hỏi theo phong tục địa phương, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Q, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc vào ngày 02/4/2018. Sau khi kết hôn anh chị sinh sống và làm việc tại thôn V., xã Q, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc. Quá trình chung sống thời gian đầu hạnh phúc sau phát sinh mâu thuẫn, Xác định tình cảm vợ chồng không còn, tháng 6/2022 chị Đ. có đơn khởi kiện đề nghị Tòa án nhân dân huyện Sơn Dương giải quyết cho cho chị được ly hôn với anh Dương Văn M..
Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Nịnh Thị Đ. trình bầy: Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh M. có quan hệ bất chính với người phụ nữ khác, chị và hai bên gia đình đã khuyên giải, anh M. đã xin lỗi và hứa sẽ thay đổi nên chị đã đồng ý, vợ chồng chuyển về thôn Đ, xã Đ, huyện S sinh sống cùng với bố mẹ đẻ chị từ đó đến nay, nhưng quá trình chung sống tại đây vẫn phát sinh mâu thuẫn, đến tháng 4/2022 thì anh M. đi làm ăn xa, chỉ thi thoảng về thăm con, anh chị sống ly thân từ đó. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng đã hết, mâu thuẫn đã trầm trọng, không thể tiếp tục duy trì cuộc sống hôn nhân này nữa. Chị đề nghị Tòa án nhân dân huyện Sơn Dương giải quyết cho cho chị được ly hôn với anh Dương Văn M..
Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là cháu Dương Chấn P., sinh ngày 08/3/2019, cháu hiện đang ở với chị. Nếu ly hôn chị nhận nuôi cháu P. và không yêu cầu anh M. có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị.
Về tài sản chung, công nợ chung: Chị Nịnh Thị Đ. xác định không có, không đề nghị giải quyết.
Kết quả xác minh tại địa phương thể hiện: Anh Dương Văn M. có hộ khẩu thường trú tại thôn Đ, xã Đ, huyện S, tỉnh Tuyên Quang. Anh M. và chị Đ. kết hôn với nhau vào năm 2018. Quá trình chung sống vợ chồng tại địa phương có phát sinh mâu thuẫn, hiện tại vợ chồng sống ly thân, anh M. thường xuyên vắng mặt tại địa phương, không xác định được làm gì ở đâu.
* Do bị đơn anh Dương Văn M. không có mặt ở địa phương nên Tòa án nhân dân huyện Sơn Dương không triệu tập được anh Dương Văn M. đến trụ sở Tòa án để lấy lời khai, chỉ tổ chức phiên họp kiểm tra tiếp cận công khai chứng cứ với nguyên đơn mà không tiến hành phiên hòa giải được.
Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang:
- Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký và việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn khi tham gia tố tụng đều đảm bảo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; riêng đối với bị đơn không chấp hành nghiêm quyền và nghĩa vụ của mình.
- Về nội dung vụ án: Chị Nịnh Thị Đ. và anh Dương Văn M. kết hôn vào năm 2018 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Q, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng thời gian đầu hạnh phúc sau phát sinh mâu thuẫn, vợ chồng hiện đang sống ly thân. Do vậy, Căn cứ vào Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, đề nghị HĐXX xử cho chị Nịnh Thị Đ. được ly hôn với anh Dương Văn M.; về con chung: Do anh M. không có mặt ở địa phương nên đề nghị giao cháu Dương Chấn P., sinh ngày 08/3/2019 cho chị Đ. trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục theo quy định tại Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; về tài sản chung, công nợ chung: Không đề nghị giải quyết nên không đề cập xử lý. Ngoài ra, đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết về án phí và tuyên quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, HĐXX nhận định:
[1] Về quan hệ pháp luật: Theo đơn khởi kiện chị Nịnh Thị Đ. đề nghị Tòa án nhân dân huyện Sơn Dương giải quyết cho chị được ly hôn với anh Dương Văn M., giao cháu Dương Chấn P. cho chị Đ. nuôi dưỡng và không đề nghị giải quyết về tài sản chung, công nợ chung. Do vậy quan hệ pháp luật ở đây được xác định là “Ly hôn và giao nuôi con chung khi ly hôn”, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang theo quy định tại Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về việc tham gia tố tụng của các đương sự:
Bị đơn anh Dương Văn M. có hộ khẩu thường trú tại thôn Đ, xã Đ, huyện S, hiện anh M. không có mặt ở địa phương. Như vậy, anh M. đã thay đổi nơi cư trú mà không thông báo cho cơ quan có thẩm quyền cũng như chị Đ. biết, theo lời khai của chị Đ. khi chị gọi điện liên hệ qua ứng dụng Messenger để nói chuyện với anh M. về việc Tòa án nhân dân huyện Sơn Dương đã thụ lý đơn xin ly hôn của chị và có giấy báo gọi anh M. đến làm việc, thì anh M. có nói là sẽ không đến Tòa án để làm việc. Đây được xác định thuộc trường hợp bị đơn cố tình dấu địa chỉ, Tòa án vẫn tiến hành giải quyết vụ án theo quy định tại Điều 28, Điều 35 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Tại phiên tòa chị Nịnh Thị Đ. vắng mặt có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn anh Dương Văn M. vắng mặt không có lý do. Do vậy, Tòa án vẫn tiến hành giải quyết vụ án vắng mặt nguyên đơn, bị đơn theo quy định tại Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[3] Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:
- Về quan hệ hôn nhân: Chị Nịnh Thị Đ. và anh Dương Văn M. kết hôn với nhau trên cơ sở được tự do tìm hiểu, tự nguyện kết hôn, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Q, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng thời gian đầu hạnh phúc sau phát sinh mâu thuẫn, vợ chồng hiện sống ly thân. Tháng 6/2022 chị Đ. có đơn khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh M..
Như vậy, cuộc sống hôn nhân của chị Nịnh Thị Đ. và anh Dương Văn M. đã lâm vào tình trạng trầm trọng, vợ chồng hiện sống ly thân. Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, có cơ sở chấp nhận xử cho chị Nịnh Thị Đ. được ly hôn với anh Dương Văn M..
- Về con chung: Chị Nịnh Thị Đ. và anh Dương Văn M. có 01 con chung là cháu Dương Chấn P., sinh ngày 08/3/2019. Cháu P. hiện đang ở với chị Đ..
Hiện tại anh M. không có mặt ở địa phương. Để đảm bảo quyền lợi mọi mặt cho cháu cần chấp nhận yêu cầu của chị Đ., giao cháu Dương Chấn P. cho chị Nịnh Thị Đ. trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục là hoàn toàn phù hợp với quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình. Anh M. không phải cấp dưỡng nuôi con (do chị Đ. không có yêu cầu) và có quyền, nghĩa vụ đi lại thăm nom con chung mà không ai được cản trở.
- Về tài sản chung, công nợ chung: Chị Nịnh Thị Đ. xác định không có, không đề nghị giải quyết nên HĐXX không xem xét.
[4]. Về án phí: Chị Nịnh Thị Đ. phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo quy định pháp luật.
[5]. Quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ các Điều 28, 35, 39, 147, 228, 235, 266, 271, 273 - Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 56, 81, 82, 83 - Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Tuyên xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Nịnh Thị Đ. được ly hôn với anh Dương Văn M..
2. Về con chung: Giao cháu Dương Chấn P., sinh ngày 08/3/2019 cho chị Nịnh Thị Đ. trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Anh Dương Văn M. không phải cấp dưỡng nuôi con và có quyền, nghĩa vụ đi lại thăm nom con chung mà không ai được cản trở.
3. Về án phí LHST: Chị Nịnh Thị Đ. phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng). Được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0002156 ngày 23 tháng 6 năm 2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Sơn Dương. Chị Đ. đã nộp đủ án phí của vụ án. Anh Dương Văn M. không phải nộp án phí.
3. Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.
Bản án về ly hôn, giao nuôi con chung số 84/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 84/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Sơn Dương - Tuyên Quang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 22/09/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về