Bản án về ly hôn, giao nuôi con chung số 12/2024/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SƠN DƯƠNG, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 12/2024/HNGĐ-ST NGÀY 02/02/2024 VỀ LY HÔN, GIAO NUÔI CON CHUNG

Ngày 02 tháng 02 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Sơn Dương mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 423/2023/TLST-HNGĐ ngày 19 tháng 10 năm 2023 về việc “Ly hôn, giao nuôi con chung khi ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 86/2023/QĐXXST-HNGĐ ngày 25 tháng 12 năm 2023, Quyết định hoãn phiên tòa số 04/2024/QĐST-HNGĐ ngày 11 tháng 01 năm 2024 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Đào Thị L, sinh năm 1992; Nơi ĐK HKTT: Thôn T, xã T, huyện S, tỉnh T. Nơi ở hiện nay: Thôn Y, xã B, huyện L, tỉnh Bắc Giang (vắng mặt, có đơn xin xử vắng mặt).

- Bị đơn: Anh Trần Đình T, sinh năm 1998; Địa chỉ: Thôn T, xã T, huyện S, tỉnh T (vắng mặt không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Về quan hệ hôn nhân: Chị Đào Thị L. và anh Trần Đình T. kết hôn với nhau vào năm 2019, trên cơ sở tự nguyện, tự do tìm hiểu, có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán của địa phương, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T. (nay là xã T.), huyện Sơn Dương, tỉnh T vào ngày 25/03/2019. Sau khi kết hôn vợ chồng sinh sống và làm việc tại Thôn T, xã T, huyện S, tỉnh T. Quá trình chung sống vợ chồng bình thường hạnh phúc, sau đó phát sinh mâu thuẫn, hiện vợ chồng đang sống ly thân. Xác định tình cảm vợ chồng không còn, tháng 10/2023 chị Đào Thị L. có đơn khởi kiện đề nghị Tòa án nhân dân huyện Sơn Dương giải quyết cho chị được ly hôn với anh Trần Đình T.

Tại đơn khởi kiện, bản tự khai và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Đào Thị L. trình bày: Nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn do khi chị mang thai cháu thứ 2 thì anh T. đi ngoại tình, dù đã được mọi người khuyên giải nhưng anh T. không thay đổi. Từ tháng 10/2022 đến nay anh T. bỏ đi làm ăn xa, không gọi điện thăm hỏi, chu cấp cho con chung, vợ chồng sống ly thân từ đó. Nay chị L. xác định tình cảm vợ chồng không còn, đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Trần Đình T.

Về con chung: Chị Đào Thị L. và anh Trần Đình T. có 02 con chung là Trần Đình L, sinh ngày 15/5/2019 và Trần Gia B, sinh ngày 25/7/2022, các cháu hiện đang ở với chị L. Trường hợp ly hôn chị L. đề nghị Tòa án giải quyết giao các con chung cho chị được nuôi dưỡng, giáo dục, không yêu cầu anh T. cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản, đất đai, vay nợ chung: Chị Đào Thị L. xác định không có, không đề nghị Tòa án giải quyết.

Kết quả xác minh thể hiện: Anh Trần Đình T. có hộ khẩu thường trú tại Thôn T, xã T, huyện S, tỉnh T. Chị Đào Thị L. và anh Trần Đình T. kết hôn vào năm 2019, có đăng ký kết hôn tại UBND xã T. (nay là xã T.), huyện S, tỉnh T theo quy định của pháp luật. Sau khi kết hôn anh chị sinh sống tại địa phương, sau đó đi làm ăn ở Hà Nội. Quá trình chung sống vợ chồng bình thường, đến năm 2022 phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng về quan điểm sống và kinh tế trong gia đình. Từ tháng 10/2022 vợ chống sống ly thân, anh T. là lao động tự do thường xuyên không có mặt ở địa phương, còn chị L. và các con đang sinh sống tại nhà ngoại ở tỉnh Bắc Giang.

Anh Trần Đình T. không có mặt ở địa phương, Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng anh T. vẫn không đến Tòa án làm việc. Do vậy, Tòa án nhân dân huyện Sơn Dương chỉ tổ chức phiên họp kiểm tra tiếp cận công khai chứng cứ với nguyên đơn mà không tiến hành hòa giải được.

Ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sơn Dương, tỉnh T:

- Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký và việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn khi tham gia tố tụng đều đảm bảo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; riêng đối với bị đơn không chấp hành nghiêm quyền và nghĩa vụ của mình.

- Về nội dung vụ án: Chị Đào Thị L. và anh Trần Đình T. kết hôn vào năm 2019 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã T. (nay là xã T.), huyện S. là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng bình thường, sau đó phát sinh mâu thuẫn, hiện vợ chồng sống ly thân. Do vậy, căn cứ vào Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, đề nghị HĐXX xử cho chị Đào Thị L. được ly hôn với anh Trần Đình T.; về con chung: giao cháu Trần Đình L, sinh ngày 15/5/2019 và cháu Trần Gia B, sinh ngày 25/7/2022 cho chị Đào Thị L. trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục theo quy định tại Điều 81, 82 Luật Hôn nhân và gia đình; về tài sản, đất đai, công nợ chung: Các đương sự không có, không đề nghị giải quyết nên không đề cập xử lý.

Ngoài ra, đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị HĐXX giải quyết về án phí và tuyên quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng và quan hệ pháp luật: Theo đơn khởi kiện chị Đào Thị L. đề nghị Tòa án nhân dân huyện Sơn Dương giải quyết cho chị được ly hôn với anh Trần Đình T. và giao nuôi con chung; không đề nghị giải quyết về tài sản, công nợ chung. Do vậy quan hệ pháp luật ở đây được xác định là “Ly hôn, giao nuôi con chung khi ly hôn”, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Sơn Dương, tỉnh T theo quy định tại Điều 39 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã triệu tập anh Trần Đình T. nhiều lần nhưng anh T. không đến làm việc, đây được xác định thuộc trường hợp bị đơn cố tình trốn tránh nghĩa vụ. Tại phiên tòa, nguyên đơn chị Đào Thị L. vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn anh Trần Đình T. vắng mặt không có lý do. Do vậy, Tòa án vẫn tiến hành giải quyết vụ án và xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn theo quy định tại Điều 28, 35, 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2]. Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

2.1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Đào Thị L. và anh Trần Đình T. kết hôn với nhau trên cơ sở được tự do tìm hiểu, tự nguyện kết hôn, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã T. (nay là xã T.), huyện S, tỉnh T vào ngày 25/3/2019 là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống hạnh phúc thời gian đầu sau đó phát sinh mâu thuẫn, vợ chồng hiện sống ly thân. Tháng 10/2023 chị Đào Thị L. có đơn khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Trần Đình T.

Như vậy, cuộc sống hôn nhân của chị Đào Thị L. và anh Trần Đình T. thời gian đầu bình thường, sau đó phát sinh mâu thuẫn, vợ chồng hiện sống ly thân nên xác định hôn nhân của anh chị đã lâm vào tình trạng trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt. Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, có cơ sở chấp nhận đơn khởi kiện của nguyên đơn xử cho chị Đào Thị L. được ly hôn với anh Trần Đình T.

2.2. Về con chung: Chị Đào Thị L. và anh Trần Đình T. có 02 con chung là Trần Đình L, sinh ngày 15/5/2019 và Trần Gia B, sinh ngày 25/7/2022.

Xét thấy, cháu Trần Đình L. và Trần Gia B. là con chung của chị Đào Thị L. và anh Trần Đình T. nên anh chị đều cùng phải có nghĩa vụ và trách nhiệm đối với các cháu. Hiện tại, anh T. đang đi làm ăn xa không có mặt ở địa phương, không rõ thời điểm trở về. Chị L. có quan điểm nhận nuôi dưỡng, giáo dục các con chung, không yêu cầu anh T. cấp dưỡng. Để đảm bảo quyền lợi mọi mặt của con chung và đảm bảo quyền lợi của các đương sự sau khi ly hôn, cần giao cháu Trần Đình L, sinh ngày 15/5/2019 và cháu Trần Gia B, sinh ngày 25/7/2022 cho chị Đào Thị L. trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục là hoàn toàn phù hợp với quy định tại Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình. Anh Trần Đình T. không phải cấp dưỡng nuôi con (do chị Đào Thị L. không yêu cầu) và có quyền, nghĩa vụ đi lại thăm nom con chung mà không ai được cản trở 2.3. Về tài sản, đất đai, vay nợ chung: Chị Đào Thị L. xác định không có, không đề nghị Tòa án giải quyết nên không xem xét.

[3]. Về án phí: Chị Đào Thị L. phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo quy định pháp luật.

[4]. Quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 28, 35, 39, 147, 228, 235, 266, 271, 273 - Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 56, 81, 82, 83 - Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Đào Thị L. được ly hôn với anh Trần Đình T.

2. Về con chung: Giao cháu Trần Đình L, sinh ngày 15/5/2019 và cháu Trần Gia B, sinh ngày 25/7/2022 cho chị Đào Thị L. trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Anh Trần Đình T. không phải cấp dưỡng nuôi con chung và có quyền, nghĩa vụ đi lại thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Đào Thị L. phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng). Được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo Giấy thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 000000727401 ngày 19 tháng 10 năm 2023 ký bởi Công ty Cổ phần thanh toán Quốc gia Việt Nam và theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0003011 ngày 19 tháng 10 năm 2023 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Sơn Dương, tỉnh T. Chị Đào Thị L. đã nộp đủ án phí của vụ án.

4. Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

20
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, giao nuôi con chung số 12/2024/HNGĐ-ST

Số hiệu:12/2024/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sơn Dương - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:02/02/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về