Bản án về ly hôn, con chung số 03/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẾ PHONG, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 03/2021/HNGĐ-ST NGÀY 22/02/2021 VỀ LY HÔN, CON CHUNG

Ngày 22 tháng 02 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Q, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm vụ án thụ lý số: 132/2020/TLST–HNGĐ ngày 17 tháng 11 năm 2021 về việc “Ly hôn, con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 03/2020/QĐXXST – HNGĐ ngày 18 tháng 01 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Lữ Thị H – sinh năm 1983

Địa chỉ: Bản T, xã N, huyện T, tỉnh Nghệ An

2. Bị đơn: Anh Lang Văn M (tên gọi khác: Lang Văn M) - sinh năm 1981

Địa chỉ: Bản M, xã C, huyện Q, tỉnh Nghệ An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 16/10/2020, các tài liệu có trong hồ sơ và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Lữ Thị H trình bày:

Về hôn nhân: Chị Lữ Thị H và anh Lang Văn M (tên gọi khác: M) kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Hữu Khuông, huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An vào ngày 25/4/2005. Quá trình chung sống không hạnh phúc do tính tình không hợp. Vợ chồng sống ly thân từ năm 2007 cho đến nay, vì vậy xét thấy tình cảm vợ chồng không còn nên chị Lữ Thị H yêu cầu Tòa án giải quyết để được ly hôn với anh Lang Văn M.

Về con chung: Hai vợ chồng có một con chung là Lữ BảoV, sinh ngày 04/01/2004. Nguyện vọng của chị Lữ Thị H là được trực tiếp chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chung đến tuổi trưởng thành và không yêu cầu anh Lang Văn M cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Chị Lữ Thị H không yêu cầu Tòa án giải quyết Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật nhưng anh Lang Văn M không có mặt để tham gia tố tụng, nên Tòa án đã ra quyết định đưa vụ án ra xét xử.

Tại phiên tòa hôm nay Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Q, tỉnh Nghệ An tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã tiến hành giải quyết vụ án theo đúng trình tự thủ tục theo pháp luật quy định. Các đương sự đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại cac Điều 70, ĐIều 71,72 và Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị áp dụng Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Các Điều 56, 81, 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho chị Lữ Thị H được được ly hôn với anh Lang Văn M (tên gọi khác: M); đề nghị giao con chung cho chị Lữ Thị H trực tiếp chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng cho đến tuổi trưởng thành (đủ 18 tuổi), tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cho anh Lang Văn M. Về tài sản, đương sự không yêu cầu giải quyết nên không đề nghị Hội đồng xét xử xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh tụng. Tòa án nhân dân huyện Q nhận định:

[1] Về tố tụng: Đây là quan hệ pháp luật tranh chấp “ly hôn, con chung” quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Q, tỉnh Nghệ An; Bị đơn Lang Văn M (tên gọi khác: M) đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng cố tình trốn tránh nên được xem là từ bỏ quyền và nghĩa vụ. Đến nay bị đơn đã vắng mặt đến lần thứ hai không có lý do. Vì vậy căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Quan hệ hôn nhân của chị Lữ Thị H và anh Lang Văn M là hợp pháp. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống không hạnh phúc do tính tình không hợp , hai vợ chồng sống ly thân từ năm 2007 cho đến nay. Điều này chứng tỏ sự vi phạm quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, cho chị Lữ Thị H được ly hôn với anh Lang Văn M (M)

[3] Về con chung: Hai vợ chồng có một con chung là Lữ BảoV, sinh ngày 04/01/2004. Từ khi sinh con cho đến nay chị Lữ Thị H là người trực tiếp chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng. Con chung có nguyện vọng được ở với mẹ. Chị Lữ Thị H có việc làm và thu nhập ổn định. Do vậy cần chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn và giao con chung Lữ Bảo V cho chị Lữ Thị H trực tiếp nuôi dưỡng.

Về cấp dưỡng nuôi con: Tại khoản 2 Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình quy định “Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con”. Chị Lữ Thị H không yêu cầu anh Lang Văn M (M) cấp dưỡng nuôi con, việc chị H không yêu cầu cấp dưỡng là tự nguyện nên cần hoãn việc đóng góp cấp dưỡng nuôi con chung đối với anh Lang Văn M.

[4] Về tài sản: Chị Lữ Thị H không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét. Nếu sau này có yêu cầu sẽ xem xét, giải quyết bằng một vụ án khác

[5] Về án phí: Nguyên đơn chị Lữ Thị H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, các Điều 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình ; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

[1] Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, cho chị Lữ Thị H được ly hôn với anh Lang Văn M (tên gọi khác: M)

[2] Về con chung: Giao con chung là Lữ BảoV, sinh ngày 04/01/2004 cho chị Lữ Thị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành (đủ 18 tuổi). Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cho anh Lang Văn M (M) Người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom con chung không ai được cản trở.

Quyết định này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự

[3] Về án phí: Nguyên đơn chị Lữ Thị H phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm. Được khấu trừ vào số tiền chị Lữ Thị H đã nộp tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án là 300.000 đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0001195 ngày 16/11/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Q.

[4] Nguyên đơn chị Lữ Thị H có quyền kháng cáo bản án trong han 15 ngày kê tư ngay tuyên án. Bị đơn anh Lang Văn M (M) có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc kể từ ngày được Tòa án tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

184
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, con chung số 03/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:03/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quế Phong - Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về