TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỤC NGẠN, TỈNH BẮC GIANG
BẢN ÁN 135/2024/HNGĐ-ST NGÀY 28/09/2024 VỀ LY HÔN, CHIA TÀI SẢN KHI LY HÔN
Ngày 28 tháng 9 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 19/2023/TLST-HNGĐ ngày 16 tháng 01 năm 2023 về việc “Ly hôn, chia tài sản khi ly hôn”.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 126/2024/QDXXST-HNGĐ ngày 22 tháng 8 năm 2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 58/2024/QĐST-HNGĐ ngày 10 tháng 9 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Lương Phương B, sinh năm 1964 (có mặt). Địa chỉ: thôn C, xã P, huyện L, tỉnh Bắc Giang. Người bảo vệ quyền và lợi ích của nguyên đơn: Bà Trịnh Thị H - Luật sư Công ty Trách nhiệm hữu hạn L thuộc Đoàn Luật sư thành phố H (có mặt).
- Bị đơn: Bà Phạm Thị H1, sinh năm 1964 (vắng mặt). Địa chỉ: thôn C, xã P, huyện L, tỉnh Bắc Giang.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Chị Lương Thị H2, sinh năm 1986 (vắng mặt).
2. Anh Lương Văn D, sinh năm 1988 (vắng mặt).
3. Chị Lương Thị T, sinh năm 1991 (vắng mặt).
4. Chị Vũ Thị M, sinh năm 1996 (vắng mặt).
Đều địa chỉ: thôn C, xã P, huyện L, tỉnh Bắc Giang.
5. Chị Lương Thị T1, sinh năm 1993 (vắng mặt). Địa chỉ: Số A, đường C, Phường T, Thành phố B, tỉnh Bắc Giang.
6. Ủy ban nhân dân huyện L, tỉnh Bắc Giang. Người đại diện theo pháp luật: Ông La Văn N - Chủ tịch UBND huyện L.
Người đại diện theo ủy quyền của Chủ tịch UBND huyện L: Bà Phạm Thị H3 - Phó Trưởng phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Lục Ngạn theo Quyết định số 1971/QĐ-UBND ngày 13 tháng 8 năm 2024 của Chủ tịch UBND huyện L (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Tại đơn khởi kiện và quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, nguyên đơn ông Lương Phương B trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Ông và bà Phạm Thị H1 kết hôn với nhau vào năm 1983 (âm lịch), việc kết hôn là do các bên tự nguyện, không bị ép buộc, được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục địa phương nhưng không làm thủ tục đăng ký kết hôn tại UBND xã theo quy định của pháp luật. Sau ngày cưới vợ chồng về chung sống với nhau, tình cảm ban đầu hạnh phúc. Đến đầu năm 2018 vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng không hợp nhau, bất đồng quan điểm không có tiếng nói chung trong phát triển kinh tế, nuôi dạy con, mỗi người một ý, không ai nghe ai, không tôn trọng nhau trong cuộc sống, làm cho cuộc sống vợ chồng luôn căng thẳng, đến tháng 7/2021 ông và bà H1 sống ly thân nhau, trong thời gian sống ly thân vợ chồng không còn quan tâm đến nhau. Nay ông xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, ông đề nghị Tòa án giải quyết cho ông và bà H1 ly hôn.
Về con chung: Ông và bà H có 04 con chung, lần lượt là Lương Thị H2, sinh năm 1986, Lương Văn D, sinh năm 1988, Lương Thị T, sinh năm 1991, Lương Thị T1, sinh năm 1993. Hiện nay các con đều trên 18 tuổi, tự lao động để nuôi dưỡng bản thân, không đề nghị Tòa án giải quyết việc nuôi dưỡng.
Về tài sản chung: Tại đơn khởi kiện ông yêu cầu Tòa án phân chia tài sản chung giữa ông và bà H1 gồm:
Diện tích đất 240m² trong đó có 60m² đất được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AG 851338, có số vào sổ cấp giấy chứng nhận: H01026 cấp ngày 13/11/2006 mang tên hộ ông Lương Phương B và vợ Phạm Thị H1 và tài sản trên đất gồm 01 nhà ba tầng xây năm 2015; 01 ki ốt xây năm 2015; số tiền mặt 1.000.000.000 đồng và tài sản vật dụng gia đình gồm: 01 ti vi, 01 tủ lạnh, 02 xe máy, 01 bộ bàn ghế gỗ.
Trong quá trình giải quyết vụ án, ông không yêu cầu Tòa án giải quyết việc phân chia tài sản gồm: diện tích đất chưa được cấp giấy chứng nhận, số tiền mặt 1.000.000.000 đồng và tài sản vật dụng gia đình gồm: 01 ti vi, 01 tủ lạnh, 02 xe máy, 01 bộ bàn ghế gỗ. Chỉ đề nghị Tòa án phân chia tài sản chung giữa ông và bà H1 gồm: Diện tích đất được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: H01026 cấp ngày 13/11/2006 mang tên hộ ông Lương Phương B và vợ Phạm Thị H1 và tài sản trên đất gồm 01 nhà 03 tầng xây năm 2015; 01 ki ốt xây năm 2015 đã định giá.
Ông đề nghị Tòa án chia đôi tài sản đã định giá theo quy định của pháp luật. Ngoài ra ông không yêu cầu phân chia tài sản nào khác.
Tại bản tự khai, biên bản lấy lời khai bị đơn bà Phạm Thị H1 trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Bà và ông B đã kết hôn có sự chứng kiến, công nhận của hàng xóm, chính quyền địa phương, sau khi kết hôn tham gia làm ăn kinh tế và có 04 người con chung. Ban đầu cuộc sống vợ chồng bình thường, đến khoảng một số năm gần đây ông B ngoại tình, ăn ở như vợ chồng với người khác và có con riêng. Ông B quay trở về và đòi ly hôn, chia tài sản. Bà không đồng ý ly hôn.
Về con chung: Con cái đã trưởng thành, bà không có yêu cầu.
Về tài sản chung: Hiện nay bà đã nhiều tuổi, không muốn bỏ chồng. Vì vậy bà không đồng ý ly hôn, không đồng ý phân chia tài sản.
* Tại bản tự khai, biên bản ghi lời khai, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày:
1. Chị Lương Thị H2, Lương Văn D, Lương Thị T, Lương Thị T1, đều trình bày: Các anh, chị là con đẻ của ông B, bà H1. Ban đầu anh chị đề nghị Tòa án xem xét công sức đóng góp, đất đai, nhà cửa. Sau đó anh chị không đồng ý cho ông B, bà H1 ly hôn nên không yêu cầu phân chia tài sản, công sức đóng góp.
2. Chị Vũ Thị M trình bày: Chị là vợ của anh Lương Văn D, kết hôn năm 2016. Việc ông B khởi kiện yêu cầu giải quyết ly hôn với bà H1, phân chia tài sản chung thì chị không đồng ý phân chia, không có ý kiến, không có yêu cầu gì.
3. UBND huyện L do bà Phạm Thị H3 là người đại diện theo ủy quyền của Chủ tịch UBND huyện L trình bày:
Sau khi xem xét các hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất liên quan đến vụ án “Tranh chấp hôn nhân gia đình giữa ông Lương Phương B và bà Phạm Thị H1 UBND huyện L có ý kiến như sau:
- Hộ ông Lương Phương B được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có số vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: H01026 ngày 13/11/2006, diện tích theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: 60m² (Địa chỉ thửa đất: Cầu C, Phì Đ, L, Bắc Giang). Diện tích theo kết quả đo đạc thực tế: 203,6 m². Trong đó có:
+ 60 m² được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
+ 143,6 m² chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
+ Phần còn lại phía trước giáp với Quốc lộ C nằm trong chi giới Hành lang giao thông.
- Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ ông Lương Phương B là đúng trình tự, thủ tục, thẩm quyền.
Diện tích đất trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có chênh lệch so với diện tích thực tế đo đạc có nhiều nguyên nhân trong đó nguyên nhân như các gia đình tự hoán đổi cho nhau, mua bán hoặc trước đây đo vẽ bằng phương pháp thủ công nay bằng máy móc nên độ chính xác cao hơn.
Do công việc bận không thể nên bà xin được vắng mặt tại tất cả các phiên họp kiểm tra giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ, hòa giải, xét xử tại Tòa án. Đề nghị Tòa án căn cứ vào quy định của pháp luật để giải quyết để đảm bảo quyền lợi cho các bên.
* Tại biên bản xem xét thẩm định ngày 26 tháng 6 năm 2024 xác định tài sản tranh chấp như sau:
Diện tích đất được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: H01026 cấp ngày 13/11/2006 mang tên hộ ông Lương Phương B và vợ Phạm Thị H1. Do bà H1 cùng các con ngăn cản, không cho Hội đồng thẩm định vào trong nhà để xem xét thẩm định, đo đạc thực tế. Do vậy hội đồng thẩm định đo đạc ở bên ngoài tại các điểm, mốc giới xung quanh diện tích và quan sát bằng mắt thường xác định các tài sản trên đất gồm:
- 01 nhà 03 tầng xây năm 2015.
- 01 ki ốt xây năm 2015 (phía trước nhà).
- 01 khu chăn nuôi (sau nhà 3 tầng).
* Tại biên bản định giá tài sản ngày 26 tháng 6 năm 2024 xác định giá trị tài sản tranh chấp như sau:
Về tài sản trên đất được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: H01026 cấp ngày 13/11/2006 mang tên hộ ông Lương Phương B và vợ Phạm Thị H1, gồm:
- 01 nhà 03 tầng xây năm 2015 có giá trị sau khi trừ khấu hao là: 944.640.000 đồng.
- 01 ki ốt xây năm 2015 (phía trước nhà) có giá trị sau khi trừ khấu hao: 5.700.000 đồng.
- 01 khu chăn nuôi (sau nhà 3 tầng) không đề nghị định giá.
Giá đất ở: Theo giá Nhà nước là 3.500.000 đồng/m². Theo giá giao dịch tại địa phương 15.000.000 đồng/m².
Giá đất trồng cây lâu năm: Theo giá giao dịch tại địa phương: 170.000 đồng/m².
* Tại phiên tòa:
Nguyên đơn ông Lương Phương B vẫn giữ nguyên yêu cầu đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn, không giải quyết con chung, chia tài sản chung.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn trình bày ý kiến bảo vệ: Về quan hệ hôn nhân: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét theo quy định. Về con chung đều đã trưởng thành, không có đề nghị, yêu cầu gì. Về tài sản chung: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét thời điểm được cấp tài sản của vợ chồng thì các con đang đi học, không có đóng góp gì. Nguồn gốc của thửa đất không phải đất khai hoang. Do vậy đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 37 Luật Hôn nhân và gia đình để chia đôi tài sản cho ông B và bà H1. Trường hợp bà H1 nhận hiện vật thì bà H1 phải thanh toán giá trị tài sản bằng tiền cho ông B.
Đại diện Viện kiểm sát phát biểu việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của các đương sự. Thẩm phán đã thực hiện đúng trình tự thủ tục tố tụng, xác định đúng thẩm quyền, quan hệ pháp luật, thu thập chứng cứ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa thực hiện đúng nguyên tắc, trình tự tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã chấp hành đúng các quy định về quyền nghĩa vụ của mình quy định tại Điều 70, Điều 71, Điều 72- Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chưa chấp hành đúng các quy định về quyền nghĩa vụ của mình quy định tại Điều 70, Điều 72, Điều 73- Bộ luật Tố tụng dân sự.
Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Áp dụng Điều 33, Điều 51, Điều 53, Điều 54, Điều 56, Điều 59, Điều 62 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 157, Điều 165, Điều 227, Điều 228, Điều 271, khoản 1 Điều 273, Điều 280 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Lương Phương B.
- Về quan hệ hôn nhân: Ông Lương Phương B được ly hôn bà Phạm Thị H1.
- Về tài sản chung:
* Giao cho bà Phạm Thị H1 được sở hữu và sử dụng diện tích đất ở 60m² có giá = 900.000.000 đồng được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: H01026 cấp ngày 13/11/2006 mang tên hộ ông Lương Phương B và vợ Phạm Thị H1, cùng tài sản trên đất gồm: 01 nhà 03 tầng xây năm 2015 có giá: 944.640.000 đồng; 01 ki ốt xây năm 2015 (phía trước nhà) có giá: 5.700.000 đồng; 01 khu chăn nuôi không định giá.
* Bà Phạm Thị H1 phải trích trả giá trị tài sản cho ông Lương Phương B 625.170.000 đồng.
* Tạm giao cho bà Phạm Thị H1 quản lý phần tài sản là giá trị quyền sử dụng đất của chị Lương Thị H2, chị Lương Thị T, anh Lương Văn D, chị Lương Thị T1 mỗi phần có trị giá 150.000.000 đồng.
* Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của ông Lương Phương B về việc phân chia diện tích đất tại thôn C, xã P, huyện L, tỉnh Bắc Giang chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; cùng tài sản là vật dụng gia đình gồm: 01 tivi, 02 tủ lạnh, 02 xe máy, đồ nội thất bàn ghế gỗ, 1.100.000.000 đồng tiền mặt.
Ngoài ra còn phát biểu về chi phí tố tụng, án phí.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ tranh chấp, thẩm quyền giải quyết:
Ông Lương Phương B có đơn khởi kiện yêu cầu giải quyết ly hôn, chia tài sản chung với bà Phạm Thị H1 có hộ khẩu thường trú tại và chỗ ở: Thôn C, xã P, huyện L, tỉnh Bắc Giang. Như vậy căn cứ vào khoản 1 Điều 28, Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì xác định tranh chấp của vụ án là “Ly hôn, chia tài sản khi ly hôn” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang.
[2] Về sự vắng mặt của những người tham gia tố tụng:
Tại phiên tòa, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là UBND huyện L do bà Phạm Thị H3 là người đại diện theo ủy quyền của Chủ tịch UBND huyện L vắng mặt nhưng có đơn xin vắng mặt. Bị đơn bà Phạm Thị H1 cùng những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là chị Lương Thị H2, anh Lương Văn D, chị Lương Thị T, chị Vũ Thị M, chị Lương Thị T1, được triệu tập hợp lệ lần hai nhưng vắng mặt không có lý do. Căn cứ Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử giải quyết theo thủ tục chung và xét xử vắng mặt những người này.
[3] Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thì thấy:
[3.1] Về quan hệ hôn nhân: Ông Lương Phương B và bà Phạm Thị H1 kết hôn với nhau vào năm 1985, trước khi cưới có được tự do tìm hiểu, tự nguyện, được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục địa phương, nhưng không làm thủ tục đăng ký kết hôn tại UBND xã theo quy định của pháp luật. UBND xã T xác nhận ông, bà không có giấy chứng nhận kết hôn; tại UBND xã T chỉ còn hồ sơ lưu từ năm 1988 đến nay. Như vậy, mặc dù ông B và bà H1 không đăng ký kết hôn nhưng ông bà kết hôn với nhau năm 1985 phù hợp với Nghị quyết số: 35/2000/NQ-QH10 ngày 09/6/2000 và Mục 1 Thông tư liên tịch 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP. Như vậy xác định đây là hôn nhân hợp pháp.
Ông B xác định nguyên nhân mâu thuẫn là vợ chồng không hợp nhau, bất đồng quan điểm không có tiếng nói chung trong phát triển kinh tế, nuôi dạy con, mỗi người một ý, không ai nghe ai, không tôn trọng, làm cho cuộc sống vợ chồng luôn căng thẳng, vợ chồng sống ly thân từ đầu năm 2022, trong thời gian sống ly thân vợ chồng không còn quan tâm đến nhau. Bị đơn bà Phạm Thị H1 không đồng ý ly hôn nhưng bà cũng xác định nguyên nhân mâu thuẫn là do ông B ngoại tình, chung sống như vợ chồng với người khác. Tòa án nhiều lần tổ chức hòa giải động viên ông B, bà H1 về đoàn tụ nhưng ông B vẫn cương quyết xin ly hôn, bà H1 không đến Tòa án tham gia hòa giải. Điều đó chứng tỏ hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Căn cứ quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, khoản 3 Điều 4 Nghị quyết số 01/2024/NQ-HĐTP ngày 16/5/2024 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật trong giải quyết vụ việc về hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử thấy cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của ông Lương Phương B, xử cho ông Lương Phương B được ly hôn bà Phạm Thị H1.
[3.2] Về con chung: Ông Lương Phương B và bà Phạm Thị Hiện s được bốn, lần lượt con chung là Lương Thị H2, sinh năm 1986; Anh Lương Văn D, sinh năm 1988; Lương Thị T, sinh năm 1991; Lương Thị T1, sinh năm 1993. Hội đồng xét thấy hiện nay cả bốn con đều trên 18 tuổi, có gia đình, tự lao động để nuôi dưỡng bản thân, ông B và bà H1 không đề nghị Tòa án giải quyết việc nuôi dưỡng nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
[3.3] Về tài sản chung:
Ông Lương Phương B xác định ông và bà H1 có tài sản chung là: Diện tích đất được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: H01026 cấp ngày 13/11/2006 mang tên hộ ông Lương Phương B và vợ Phạm Thị H1; 01 nhà 03 tầng xây năm 2015; 01 ki ốt xây năm 2015 (phía trước nhà) đã được định giá. Bị đơn bà Phạm Thị H1 không nhất trí phân chia tài sản nên không trình bày ý kiến về tài sản chung. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hay yêu cầu gì.
Hội đồng xét xử xét thấy: Diện tích đất được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: H01026 cấp ngày 13/11/2006 mang tên hộ ông Lương Phương B và vợ Phạm Thị H1. Diện tích đất cấp trong thời kỳ hôn nhân, tại thời điểm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hộ ông Lương Phương B có 06 người gồm ông Lương Phương B, bà Phạm Thị H1, chị Lương Thị H2, chị Lương Thị T1, anh Lương Văn D, chị Lương Thị T. Nguồn gốc diện tích đất này là bán toàn bộ đất của gia đình ở xã T để mua nên diện tích đất này thuộc quyền sở hữu chung của 06 người. Mỗi người được sở hữu một phần diện tích đất 15m² có giá trị = 250.000.000 đồng.
Hiện nay, diện tích đất 60m² này do bà Phạm Thị H1 đang ở, không thể chia nhỏ mỗi người 10m². Do vậy cần chia cho bà H1 được quyền sử dụng diện tích đất này. Tuy nhiên bà H1 phải trích trả bằng tiền cho ông B, chị H2, chị T1, chị T, anh D giá trị của diện tích 10m² x 15.000.000 đồng = 150.000.000 đồng.
Tuy nhiên hiện nay chỉ có ông B yêu cầu phân chia tài sản này, do vậy chỉ buộc bà H1 phải trích trả cho ông B số tiền 150.000.000 đồng. Đối với phần của chị H2, chị T1, chị T, anh D do chị H2, chị T1, chị T, anh D chưa yêu cầu nên tạm giao phần giá trị quyền sử dụng đất 10m² x 15.000.000 đồng = 150.000.000 đồng của mỗi người cho bà H1 quản lý, khi nào chị H2, chị T1, chị T, anh D yêu cầu sẽ giải quyết bằng vụ án khác.
Đối với căn nhà 03 tầng và 01 ki ốt xây năm 2015 (phía trước nhà) là tài sản phát sinh trong thời kỳ hôn nhân giữa ông B, bà H1. Các con của ông, bà không có ý kiến hay yêu cầu gì về trích chia công sức, tài sản cần xác định đây là tài sản chung của ông B, bà H1 cần chia đôi cho ông bà. Do căn nhà xây trên diện tích 60m² nên cần giao cho bà H1 được sở hữu và sử dụng nhưng buộc bà H1 trích chia ½ giá trị ngôi nhà và ki ốt cho ông B.
Từ những lập luận nêu trên, Hội đồng xét xử thấy việc ông B yêu cầu chia diện tích đất được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: H01026 cấp ngày 13/11/2006 mang tên hộ ông Lương Phương B và vợ Phạm Thị H1; 01 nhà 03 tầng xây năm 2015; 01 ki ốt xây năm 2015 (phía trước nhà) đã được định giá là có căn cứ chấp nhận phù hợp với Điều 33, Điều 59, Điều 62 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Cụ thể cần phân chia như sau:
* Giao cho bà Phạm Thị H1 được quyền sử dụng diện tích đất 60m² = 900.000.000 đồng được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: H01026 cấp ngày 13/11/2006 mang tên hộ ông Lương Phương B và vợ Phạm Thị H1. Bà H1 được quyền sở hữu, sử dụng những tài sản trên đất gồm: 01 nhà 03 tầng xây năm 2015 có giá: 944.640.000 đồng; 01 ki ốt xây năm 2015 (phía trước nhà) có giá: 5.700.000 đồng; 01 khu chăn nuôi (sau nhà 3 tầng) không định giá.
* Bà Phạm Thị H1 phải trích trả giá trị tài sản cho ông Lương Phương B 625.170.000 đồng.
Tổng giá trị tài sản ông Lương Phương B được thực hưởng: 625.170.000 đồng.
Tổng giá trị tài sản bà Phạm Thị H1 được thực hưởng: 625.170.000 đồng.
* Tạm giao cho bà Phạm Thị H1 quản lý phần giá trị quyền sử dụng đất của chị Lương Thị H2, chị Lương Thị T, anh Lương Văn D, chị Lương Thị T1 mỗi phần có trị giá 150.000.000 đồng. Nếu chị H2, chị T, anh D, chị T1 yêu cầu sẽ giải quyết bằng một vụ án dân sự khác.
* Đối với yêu cầu chia phần diện tích đất chưa được cấp giấy chứng nhận, số tiền mặt 1.100.000.000 đồng và tài sản vật dụng gia đình gồm: 01 ti vi, 01 tủ lạnh, 02 xe máy, 01 bộ bàn ghế gỗ ông B rút không yêu cầu nên Hội đồng xét xử đình chỉ yêu cầu của ông B, không đặt ra xem xét giải quyết.
Cơ quan có thẩm quyền căn cứ vào bản án có hiệu lực pháp luật và các Quyết định liên quan tiến hành thu hồi được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: H01026 cấp ngày 13/11/2006 mang tên hộ ông Lương Phương B và vợ Phạm Thị H1 để cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mới cho bà Phạm Thị H1 là phù hợp với Điều 99 Luật Đất đai và Nghị quyết 43/2014/NĐ-CP của Chính phủ.
[4] Về chi phí tố tụng: Ông Lương Phương B đã nộp 8.500.000 đồng tiền chi phí thẩm định, định giá và 1.180.000 đồng tiền chi phí trích đo. Tổng số: 9.680.000 đồng. Do ông Lương Phương B và bà Phạm Thị H1 hưởng giá trị tài sản bằng nhau nên chịu Chi phí thẩm định, định giá, trích đo ngang nhau. Do vậy cần buộc bà Phạm Thị H1 phải trả ½ số tiền chi phí xem xét, thẩm định, định giá và trích đo = 4.840.000 đồng.
[5] Về án phí: Ông Lương Phương B và bà Phạm Thị H1 phải chịu án phí tương đương với tài sản ông bà nhận được. Tuy nhiên, ông Lương Phương B và bà Phạm Thị H1 đều là người cao tuổi nên được miễn án phí dân sự sơ thẩm. Trả lại ông Lương Phương B số tiền tạm ứng án phí là 25.000.000 đồng đã nộp theo biên lai thu số: 0015224 ngày 10/01/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lục Ngạn.
[6] Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn luật định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điều 33, Điều 51, Điều 53, Điều 54, Điều 56, Điều 59, Điều 62 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 157, Điều 165, Điều 227, Điều 228, Điều 271, khoản 1 Điều 273, Điều 280 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Xử: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Lương Phương B.
1. Về quan hệ hôn nhân: Cho ông Lương Phương B được ly hôn bà Phạm Thị H1.
2. Về tài sản chung:
2.1. Giao cho bà Phạm Thị H1 được quyền sử dụng diện tích đất ở 60m² có giá trị là 900.000.000 đồng được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AG 851338, có số vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng: H01026 cấp ngày 13/11/2006 mang tên hộ ông Lương Phương B và vợ Phạm Thị H1. Bà Phạm Thị H1 được quyền sở hữu, sử dụng tài sản trên đất gồm:
- 01 nhà 03 tầng xây năm 2015 có giá: 944.640.000 đồng.
- 01 ki ốt xây năm 2015 (phía trước nhà) có giá: 5.700.000 đồng.
- 01 khu chăn nuôi không định giá.
2.2. Bà Phạm Thị H1 phải trích trả giá trị tài sản cho ông Lương Phương B 625.170.000 đồng.
2.3. Tạm giao cho bà Phạm Thị H1 quản lý phần tài sản là giá trị quyền sử dụng đất của chị Lương Thị H2, chị Lương Thị T, anh Lương Văn D, chị Lương Thị T1, mỗi phần có trị giá 150.000.000 đồng.
2.4. Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của ông Lương Phương B về việc phân chia diện tích đất tại thôn C, xã P, huyện L, tỉnh Bắc Giang chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; cùng tài sản là vật dụng gia đình gồm: 01 tivi, 02 tủ lạnh, 02 xe máy, đồ nội thất bàn ghế gỗ, 1.100.000.000 đồng tiền mặt.
(Có sơ đồ thửa đất kèm theo) 3. Về chi phí tố tụng: Ông Lương Phương B, bà Phạm Thị H1, mỗi người phải chịu 4.840.000 đồng chi phí xem xét thẩm định, định giá tài sản và chi phí trích đo. Xác nhận ông Lương Phương B đã nộp đủ. Bà Phạm Thị H1 phải trả cho ông Lương Phương B số tiền chi phí xem xét, thẩm định, định giá và trích đo là 4.840.000 đồng.
4. Về án phí: Miễn án phí dân sự sơ thẩm cho ông Lương Phương B và bà Phạm Thị H1.
Trả lại ông Lương Phương B số tiền tạm ứng án phí 25.000.000 đồng đã nộp theo Biên lai thu số: 0015224 ngày 10 tháng 01 năm 2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang.
Cơ quan có thẩm quyền căn cứ vào bản án có hiệu lực pháp luật và các Quyết định liên quan tiến hành thu hồi được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AG 851338, có số vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng: H01026 cấp ngày 13/11/2006 mang tên hộ ông Lương Phương B và vợ Phạm Thị H1 để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mới cho bà Phạm Thị H1.
Kể từ ngày Bản án có hiệu lực pháp luật, đến thời hạn thanh toán, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án mà người phải thi hành án không thi hành án hoặc thi hành án không đầy đủ thì phải chịu lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian chậm trả tiền trên số tiền chậm trả tại thời điểm thanh toán.
5. Về quyền kháng cáo:
Đương sự có mặt tại phiên tòa được biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án tống đạt hợp lệ hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật.
Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về ly hôn, chia tài sản khi ly hôn số 135/2024/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 135/2024/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Lục Ngạn - Bắc Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 28/09/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về