Bản án về kiện tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản số 78/2023/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN EA H’LEO, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 78/2023/DS-ST NGÀY 18/09/2023 VỀ KIỆN TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN TÀI SẢN

Ngày 18/9/2023 tại phòng xử án - Tòa án nhân dân huyện Ea H’Leo mở phiên tòa xét xử công khai vụ án dân sự sơ thẩm thụ lý số 209/2023/TLST-DS, ngày 12/6/2023, về việc “Kiện tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 113/2023/QĐST-DS ngày 11/8/2023 và quyết định hoãn phiên tòa số 92/2023/QĐST-DS ngày 29/8/2023 giữa:

Nguyên đơn: Ông Nay Y A, sinh năm 1985. Có đơn xin xét xử vắng mặt. Địa chỉ: Buôn K, xã E, huyện H, tỉnh Đăk Lăk.

Bị đơn: Ông Trịnh Tấn T và bà Lê Thị Th. Vắng mặt lần thứ hai không có lý do.

Địa chỉ: Thôn 3, xã E, huyện H, tỉnh Đăk Lăk.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, trong quá trình giải quyết vụ án ông Y A là nguyên đơn trình bày:

Ngày 25/5/2018 ông Nay Y A bán phân bón cho ông Trịnh Tấn T và bà Lê Thị Th, ông T và bà Th ký giấy xác nhận nợ tiền phân là 19.800.000 đồng và hẹn trả nợ vào ngày 15/01/2019. Đến hẹn ông Y A đã nhiều lần đến đòi nợ thì ông T, bà Th có trả cho ông Y A 6.000.000 đồng. Số tiền còn nợ lại 13.800.000 đồng cho đến nay ông T, bà Th vẫn chưa trả nợ cho ông Y A, nay ông Y A yêu cầu ông T, bà Th trả số tiền còn nợ là 13.800.000 đồng.

Ngày 29/8/2023 ông Y A có đơn xin rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với số tiền 6.000.000 đồng.

Về lãi suất: Ông Y A không yêu cầu.

Ngoài ra, ông Y A không có yêu cầu nào khác.

Trong quá trình giải quyết vụ án bà Th là bị đơn trình bày:

Bà Th thừa nhận ngày 25/5/2018 bà Th, ông T ký xác nhận nợ ông Y A 19.800.000 đồng tiền mua phân bón và hẹn đến ngày 15/01/2019 trả nợ cho ông Y A.

Đến hẹn bà Th, ông T đã trả cho ông Y A 6.000.000 đồng, hiện bà Th, ông T còn nợ ông Y A số tiền 13.800.000 đồng, nhưng hiện bà Th, ông T chưa có khả năng trả nợ cho ông Y A. Bà Th, ông T xin hẹn cuối năm 2023 trả ½ số tiền nợ và đầu năm 2024 trả đủ số tiền còn lại.

Phát biểu của Kiểm sát viên:

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên tham gia phiên tòa khẳng định:

Về thủ tục tố tụng: Quá trình thu thập tài liệu, chứng cứ, Tòa án thực hiện đầy đủ và đúng trình tự theo quy định của pháp luật về tố tụng. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử và những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng đã chấp hành đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai của đương sự do chủ tọa phiên tòa đã công bố tại phiên tòa thể hiện việc ông Y A khởi kiện yêu cầu ông T, bà Th trả số tiền nợ 13.80.000 đồng là có căn cứ. Vì vậy, đề nghị HĐXX áp dụng khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 430; Điều 440 Bộ luật dân sự, cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Y A.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và đã được kiểm tra xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1]. Về thủ tục tố tụng: Việc ông Nay Y A khởi kiện ông Trịnh Tấn T, bà Lê Thị Th tại Tòa án và Toà án thụ lý giải quyết về Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự.

Ông T, bà Th đã được Tòa án triệu tập đến Tòa án để công khai chứng cứ và hòa giải, nhưng ông T, bà Th vẫn vắng mặt không có lý do, gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án, nên Tòa án không thể tiến hành công khai chứng cứ và hòa giải giữa các đương sự được mà tiến hành xác minh, niêm yết các văn bản tố tụng tại nơi ông T, bà Th cư trú. Theo quy định tại khoản 1 Điều 207, điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án không tiến hành hòa giải được và tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

Nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt, căn cứ điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt tất cả những người tham gia tố tụng.

[2]. Về nội dung: Bà Lê Thị Th thừa nhận ngày 25/5/2018 bà Th, ông T ký xác nhận nợ ông Y A 19.800.000 đồng tiền mua phân bón và hẹn đến ngày 15/01/2019 trả nợ cho ông Y A. Đến hẹn bà Th, ông T đã trả cho ông Y Am 6.000.000 đồng, hiện bà Th, ông T còn nợ ông Y A số tiền 13.800.000 đồng. Do hiện tại bà Th, ông T chưa có khả năng trả nợ cho ông Y A. Bà Th, ông T xin hẹn cuối năm 2023 trả ½ số tiền nợ và cuối năm 2024 trả đủ số tiền còn lại, nhưng ông Y A không đồng ý.

Căn cứ vào giấy nợ đề ngày 25/5/2018 do ông Y A cung cấp và trong quá trình giải quyết vụ án bà Th cũng đã thừa nhận hiện còn nợ ông Y A số tiền 13.800.000 đồng, cho đến nay vẫn chưa trả nợ cho ông Y A nên đây là tình tiết không phải chứng minh theo quy định tại Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự. Như vậy, có đủ căn cứ khẳng định, hiện bà Thúy, ông Tài còn nợ ông Y A số tiền 13.800.000 đồng, trên cơ sở tự nguyện thỏa thuận, các bên đã xác lập “Hợp đồng mua bán tài sản” được quy định tại Điều 430 Bộ luật dân sự.

Quá trình thực hiện hợp đồng, đến hạn trả nợ nhưng bà Th, ông T không thực hiện đúng cam kết là vi phạm về nghĩa vụ trả nợ của bên mua tài sản được quy định tại Điều 440 Bộ luật dân sự. Từ những phân tích trên, xét yêu cầu khởi kiện của ông Y Am là có căn cứ, nên cần chấp nhận.

[3]. Tại đơn khởi kiện ông Y A yêu cầu ông T, bà Th trả số tiền 19.800.000 đồng. Đến ngày 29/8/2023 ông Y A đã có đơn xin rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với số tiền 6.000.000 đồng. Việc rút một phần yêu cầu khởi kiện của ông Y A là tự nguyện phù hợp với khoản 2 Điều 71 của Bộ luật tố tụng dân sự, cần chấp nhận.

[4]. Về lãi suất: Ông Y A không yêu cầu, nên không đề cập xem xét.

[5]. Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của ông Y A được chấp nhận, nên bà Th, ông T phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Trả lại cho ông Y A tiền tạm ứng án phí đã nộp.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 430; Điều 440 Bộ luật dân sự;

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nay Y A.

Buộc bà Lê Thị Th và ông Trịnh Tấn T trả cho ông Nay Y A số tiền 13.800.000 đồng (Mười ba triệu, tám trăm nghìn đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự.

Căn cứ khoản 2 Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự. Đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu ông Y A đã rút.

Về án phí: Căn cứ khoản 3 Điều 144; khoản 1 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự.

Căn cứ khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Bà Lê Thị Th và ông Trịnh Tấn T phải chịu 690.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Trả lại cho ông Nay Y A 495.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Ea H’Leo, theo biên lai số AA/2021/0011423 ngày 09/6/2023.

Về quyền kháng cáo: Căn cứ các điều 271; khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

Các đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

49
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án về kiện tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản số 78/2023/DS-ST

Số hiệu:78/2023/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ea H'leo - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 18/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về