Bản án về kiện tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản số 45/2023/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN EA H’LEO, TỈNH ĐĂK LĂK

BẢN ÁN 45/2023/DS-ST NGÀY 17/07/2023 VỀ KIỆN TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN TÀI SẢN

Ngày 17/7/2023 tại phòng xử án - Tòa án nhân dân huyện Ea H’Leo mở phiên tòa xét xử công khai vụ án dân sự sơ thẩm thụ lý số 415/2022/TLST-DS, ngày 06/12/2022, về việc “Kiện tranh chấp HĐ mua bán tài sản” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 66/2023/QĐST-DS ngày 05/6/2023 và quyết định hoãn phiên tòa số 53/2023/QĐST-DS ngày 26/6/2023 giữa:

Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1978. Có đơn xin xét xử vắng mặt. Địa chỉ: Thôn 6, xã E, huyện H, tỉnh Đăk Lăk.

Bị đơn: Ông Phạm Anh M. Vắng mặt lần thứ hai không có lý do.

Địa chỉ: Thôn 7, xã E, huyện H, tỉnh Đăk Lăk.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, trong quá trình giải quyết vụ án ông T là nguyên đơn trình bày:

Từ năm 2018 đến năm 2020 ông T có bán phân bón cho ông M nhiều lần, đến ngày 20/11/2020 hai bên chốt nợ thì ông M còn nợ ông T 46.610.000 đồng, ông T đã nhiều lần đến đòi nợ nhưng cho đến nay ông M vẫn chưa trả nợ cho ông T. Nay ông T yêu cầu ông M phải trả số tiền còn nợ là 46.610.000 đồng.

Ngoài ra, ông T không có yêu cầu nào khác.

Trong quá trình giải quyết vụ án ông M là bị đơn trình bày:

Ông M thừa nhận nhiều lần mua phân bón của ông T, đến ngày 20/11/2020 ông M ký giấy xác nhận còn nợ ông T số tiền 46.610.000 đồng, nhưng hiện tại ông M không có khả năng trả nợ cho ông T. Ông M xin trả nợ này cho ông T sau năm năm.

Phát biểu của Kiểm sát viên:

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên tham gia phiên tòa khẳng định:

Về thủ tục tố tụng: Quá trình thu thập tài liệu, chứng cứ, Tòa án thực hiện đầy đủ và đúng trình tự theo quy định của pháp luật về tố tụng. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử và những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng đã chấp hành đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai của đương sự do chủ tọa phiên tòa đã công bố tại phiên tòa thể hiện việc ông T khởi kiện yêu cầu ông M trả số tiền nợ 46.610.000 đồng là có căn cứ. Vì vậy, đề nghị HĐXX áp dụng khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 430; Điều 440 Bộ luật dân sự, cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông T.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và đã được kiểm tra xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1]. Về thủ tục tố tụng: Việc ông Nguyễn Văn T khởi kiện ông Phạm Anh M tại Tòa án và Toà án thụ lý giải quyết về Tranh chấp HĐ mua bán tài sản là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành triệu tập ông Phạm Anh M đến Tòa án để công khai chứng cứ và hòa giải, nhưng ông M vẫn vắng mặt không có lý do, gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án, nên Tòa án không thể tiến hành công khai chứng cứ và hòa giải giữa các đương sự được mà tiến hành xác minh, niêm yết các văn bản tố tụng tại nơi ông M cư trú. Theo quy định tại khoản 1 Điều 207, điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn. Sau khi quyết định đưa vụ án ra xét xử, nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt, căn cứ điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt tất cả những người tham gia tố tụng.

[2]. Về nội dung: Trong quá trình giải quyết vụ án ông Phạm Anh M thừa nhận có ký giấy xác nhận nợ ông Nguyễn Văn T 46.610.000 đồng, các bên không thỏa thuận lãi suất, không thỏa thuận thời hạn trả nợ. Do điều kiện, kinh tế gặp khó khăn nên ông M chưa có tiền trả nợ cho ông T. Nay ông M xin hẹn trả nợ trong vòng 5 năm, nhưng ông T không đồng ý.

Căn cứ vào giấy nợ tiền đề ngày 20/11/2020 do ông T cung cấp và trong quá trình giải quyết vụ án ông M cũng đã thừa nhận có ký xác nhận nợ ông T 46.610.000 đồng cho đến nay vẫn chưa trả nợ cho ông T. Như vậy, có đủ căn cứ khẳng định, ngày 20/11/2020 ông M ký giấy xác nhận nợ ông T số tiền 46.610.000 đồng, trên cơ sở tự nguyện thỏa thuận, các bên đã xác lập “Hợp đồng mua bán tài sản” được quy định tại Điều 430 Bộ luật dân sự.

Quá trình thực hiện hợp đồng, đến hạn trả nợ nhưng ông M không thực hiện đúng cam kết là vi phạm về nghĩa vụ trả nợ của bên mua tài sản được quy định tại Điều 440 Bộ luật dân sự. Từ những phân tích trên, xét yêu cầu khởi kiện của ông T là có căn cứ, nên cần chấp nhận.

[3]. Về lãi suất: Nguyên đơn không yêu cầu, nên không đề cập xem xét.

[4]. Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của ông T được chấp nhận, nên ông M phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Trả lại cho ông T tiền tạm ứng án phí đã nộp.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 430; Điều 440 Bộ luật dân sự;

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn T.

Buộc ông Phạm Anh M trả cho ông Nguyễn Văn T 46.610.000 đồng (bốn mươi sáu triệu, sáu trăm mười nghìn đồng).

Trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả, kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong. Lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự.

Về án phí: Căn cứ khoản 3 Điều 144; khoản 1 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự.

Căn cứ khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Ông Phạm Anh M phải chịu 2.471.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Trả lại cho ông Nguyễn Văn T 1.165.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Ea H’Leo, theo biên lai số AA/2021/0010955 ngày 25/11/2022.

Về quyền kháng cáo: Căn cứ các điều 271; khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

Các đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

173
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về kiện tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản số 45/2023/DS-ST

Số hiệu:45/2023/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ea H'leo - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 17/07/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về