Bản án về kiện quyết định hành chính quản lý đất đai số 67/2021/HC-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH B

BẢN ÁN 67/2021/HC-ST NGÀY 09/12/2021 VỀ KIỆN QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI

Ngày 24 tháng 11 và 09 tháng 12 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh B xét xử công khai vụ án hành chính sơ thẩm thụ lý số 11/2021/TLST- HC ngày 25/01/2021, về việc khởi kiện “Quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai”;

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 46/2021/QĐXXST-HC ngày 09/6/2021, Thông báo về việc hoãn và mở lại phiên tòa số 99/2021/TB-TA ngày 21/6/2021, Thông báo về việc hoãn và mở lại phiên tòa số 232/2021/TB-TA ngày 08/11/2021, giữa các đương sự:

1. Người khởi kiện: Ông R.K.K, sinh năm 1964; Địa chỉ: Số 66 Đ.Đ, phường T.N, thành phố V, tỉnh B.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông N.V.H, sinh năm 1975; Địa chỉ: Số 118 N.Q, phường R.D, thành phố V, tỉnh B.

2. Người bị kiện: Ủy ban nhân dân thành phố V;

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp: Ông N.T.P -Chuyên viên Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố V;

Cùng địa chỉ: Số 89 L.T.K, Phường 1, thành phố V, tỉnh B.

3. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

Bà N.T.N.N sinh năm 1963; Địa chỉ: Số 66 Đ.Đ, phường T.N, thành phố V, tỉnh B.

4. Người làm chứng:

4.1. Trung đoàn 261; Địa chỉ: Phường T.N, thành phố V, tỉnh B.

4.2. Bà N.T.D, sinh năm 1956; Địa chỉ: Số 164 L.C.H, phường T.N, thành phố V, tỉnh B.

4.3. Ông N.H.T, sinh năm 1965; Địa chỉ: Số 168/6 L.C.H, phường T.N, thành phố V, tỉnh B.

(Ông T, bà D vắng mặt, đã có lời khai gửi Tòa án).

(Ông H, ông P đều có mặt; các đương sự khác vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

[1] Quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, người khởi kiện và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện trình bày:

Ông R.K.K là chủ sử dụng hợp pháp diện tích đất 1.650,20m2 bị Ủy ban nhân dân (UBND) thành phố V thu hồi, thuộc một phần diện tích 2.767m2 của thửa 69 tờ số 02 (cũ) tại Phường 9 (nay là phường T.N), thành phố V, tỉnh B.

Nguồn gốc đất do cha ông K khai phá, canh tác và sử dụng từ năm 1975, đến năm 1984 ông K lập gia đình, nên cha ông K cho ông K sử dụng liên tục đến nay, không có ai tranh chấp. Đất đã kê khai đăng ký, có tên trong Sổ mục kê, Sổ đăng ký ruộng đất, Bản đồ địa chính và được UBND Phường 9 cũ (nay là phường T.N) thành phố V cấp Giấy chứng nhận đã đăng ký ruộng đất số 865/P9/ĐKRĐ ngày 15/08/1990.

Ngày 26/06/2020, UBND thành phố V ban hành Quyết định số: 2838/QĐ- UBND về việc thu hồi 1.650,20m2 đất của ông K để thực hiện dự án Hạ tầng kỹ thuật khu tái định cư phường T.N, thành phố V. Cùng ngày 26/06/2020, UBND thành phố V ban hành Quyết định số 2841/QĐ-UBND về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ cho ông (bà) R.K.K (gọi là Quyết định 2841). UBND thành phố V thu hồi của gia đình ông K 1.650,20m2 đất, nhưng tại phần 1 Điều 1 Quyết định 2841 chỉ bồi thường 1.350,20m2 đất cho ông K theo giá đất 2.817.000đ/01m2 được UBND tỉnh B phê duyệt tại Quyết định số 3239/QĐ- UBND ngày 06/11/2017; không bồi thường diện tích đất 300m2, vì cho rằng đất có nguồn gốc do Trung đoàn E261 đăng ký thửa 162, tờ bản đồ số 02 cũ trong sổ mục kê năm 1990.

- Căn cứ của yêu cầu khởi kiện.

- Đối với diện tích 300m2 không được bồi thường, hỗ trợ.

Gia đình ông K trực tiếp khai phá sử dụng liên tục, không có ai tranh chấp đối với 300m2 từ năm 1975 đến nay, đất đã kê khai đăng ký đất, có tên trong: Sổ mục kê, sổ đăng ký ruộng đất, bản đồ địa chính và được UBND Phường 9 cũ (nay là phường T.N), thành phố V cấp Giấy chứng nhân đã đăng ký ruộng đất số 865/P9/ĐKRĐ ngày 15/08/1990.

Gia đình ông K sử dụng đất từ trước tới nay không bị Trung đoàn E 261 tranh chấp, trên đất cũng không có mốc giới thể hiện đây là phần đất của Trung đoàn E 261. Mặt khác, gia đình ông K cũng không bị bất cứ cơ quan nhà nước có thẩm quyền nào thông báo về việc lấn chiếm đất công, cũng như bị lập biên bản xử lý, xử phạt về hành vi lấn chiếm.

Việc Ủy ban nhân dân thành phố V cho rằng 300m2 do Trung đoàn E261 đăng ký thửa 162, tờ bản đồ số 02 cũ trong sổ mục kê năm 1990 để không bồi thường, hỗ trợ cho gia đình ông K là không đúng pháp luật và thực tế sử dụng đất. Do đó, gia đình ông K có đầy đủ cơ sở và điều kiện theo quy định pháp luật để được bồi thường, hỗ trợ đối với diện tích 300m2 đất còn thiếu.

- Đối với giá đất để tính bồi thường được phê duyệt từ năm 2017.

Tại Quyết định số 2841, Ủy ban nhân dân thành phố V áp dụng giá đất 2.817.000đồng/01m2 để tính bồi thường căn cứ theo giá đất được phê duyệt từ ngày 06/11/2017 tại Quyết định số 3239/QĐ-UBND của UBND tỉnh B, tức là giá đất được phê duyệt từ hơn 02 năm trước đó.

Do đó, giá đất được áp dụng tại Quyết định số 2841 không phù hợp với nguyên tắc giá đất tính bồi thường khi nhà nước thu hồi đất là giá đất cụ thể tại thời điểm quyết định thu hồi đất theo quy định tại khoản 2 Điều 74 Luật đất đai 2013 và theo căn cứ mục 7, phần II của Tiều chuẩn thẩm định giá Việt Nam số 05: Quy trình thẩm định giá (Ký hiệu: TĐGVN 05) Ban hành kèm theo Thông tư số 28/2015/TT-BTC ngày 06/3/2015 của Bộ Tài chính thì thời hạn có hiệu lực của kết quả thẩm định giá tối đa không quá 6 (sáu) tháng kể từ thời điểm chứng thư thẩm định giá có hiệu lực.

Vì vậy, Quyết định số 2841 chưa đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của gia đình ông K trong quá trình nhà nước thu hồi đất.

Ngày 28/12/2020, ông K có Đơn khởi kiện; ngày 14/01/2021 có Đơn sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện, yêu cầu Tòa án giải quyết các vấn đề sau:

- Tuyên hủy nội dung: “Diện tích đất bồi thường 1.350,20m2 và diện tích đất chưa bồi thường 300,00m2tại phần 1 Điều 1 và nội dung: “Bồi thường giá trị quyền sử dụng đất diện tích 1.350,20m2 đt nông nghiệp vị trí 2, đường loại 4 với đơn giá là 2.817.000 đồng/m2tại Mục A/ phần 1 Điều 1 Quyết định số 2841/QĐ-UBND ngày 26/06/2020 của của Ủy ban nhân dân thành phố V “Về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ cho ông (bà) R.K.K, địa chỉ số 66, Đ.Đ, phường T.N, thành phố V do Nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự án Hạ tầng kỹ thuật khu tái định cư phường T.N, thành phố V”.

- Tuyên buộc Ủy ban nhân dân thành phố V phải bồi thường diện tích đất 1.350,2m2 theo đơn giá đất cụ thể tại thời điểm ban hành quyết định bồi thường bổ sung cho ông K.

- Tuyên buộc Ủy ban nhân dân thành phố V bồi thường, hỗ trợ bổ sung diện tích 300m2 đất còn thiếu theo giá đất cụ thể tại thời điểm ban hành quyết định bồi thường, hỗ trợ bổ sung cho ông K.

[2] Quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, Ủy ban nhân dân thành phố V, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố V và người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp trình bày:

Hộ ông R.K.K có diện tích đất bị thu hồi 1.650,20m2. Ngày 26/6/2020, UBND thành phố V đã ban hành Quyết định số 2841/QĐ-UBND và Quyết định số 2838/QĐ-UBND về việc thu hồi đất và phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ cho ông R.K.K, theo đó bồi thường 1.350,20m2 đất nông nghiệp vị trí 2, đường loại 4 thuộc diện tích đất do gia đình ông K khai phá và chưa bồi thường, hỗ trợ 300m2 do phần diện tích đất này có nguồn gốc là đất Quốc phòng.

Giá đất tính bồi thường cho hộ ông K thuộc dự án Hạ tầng kỹ thuật khu tái định cư phường T.N đã được UBND tỉnh phê duyệt giá đất cụ thể tại Quyết định số 3239/QĐ-UBND ngày 06/11/2017.

Việc khảo sát, xác định, đề xuất giá cụ thể do đơn vị tư vấn lập dựa trên cơ sở các quy định khoản 3, 4 Điều 115 và khoản 2 Điều 116 Luật Đất đai năm 2013 và được Hội đồng thẩm định giá đất cụ thể của Tỉnh thẩm định trước khi trình UBND tỉnh ký ban hành. Do đó, việc áp giá để tính bồi thường về đất cho hộ ông K theo giá đất cụ thể tại Quyết định số 3239/QĐ-UBND ngày 06/11/2017 của UBND tỉnh là phù hợp với quy định của pháp luật.

Phần diện tích đất thu hồi còn lại 300m2 chưa bồi thường, hỗ trợ do phần diện tích đất này có nguồn gốc đất quốc phòng hiện nay Nhà nước quản lý (Trung đoàn E261 đã đăng ký trong Sổ mục kê năm 1990 tại thửa 162 cũ, tờ bản đồ số 02 cũ). Ông K tự ý sử dụng nên không đủ điều kiện bồi thường theo Điều 82 Luật Đất đai năm 2013.

Từ cơ sở trên, UBND thành phố V đề nghị Tòa án bác đơn khởi kiện của ông R.K.K và giữ nguyên nội dung Quyết định số 2841/QĐ-UBND ngày 26/6/2020 của UBND thành phố V.

[3] Quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là quan - bà N.T.N.N trình bày: Bà N đồng ý với nội dung, các yêu cầu của việc khởi kiện của ông R.K.K và cũng là quan điểm giải quyết vụ án của bà N. Đề nghị Tòa án ghi nhận ý kiến của bà N để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà N.

[4] Người làm chứng là Trung đoàn 261 trình bày:

Căn cứ vào Nghị định số 09/CP ngày 12/02/1996 của Thủ tướng Chính phủ. Căn cứ vào Công văn số 882/QĐ ngày 20/3/2003 của Bộ Quốc phòng về việc chuyển giao đất quốc phòng của Quân chủng PK-KQ tại Phường 9, thành phố V cho UBND tỉnh B. Căn cứ vào công văn số 259/UB-VP ngày 16/01/2003 của UBND tỉnh B về việc xin tiếp nhận khu đất quốc phòng do Quân chủng PK- KQ quản lý tại Phường 9, thành phố V để sử dụng vào mục đích phát triển kinh tế xã hội tại địa phương.

Căn cứ vào quyết định 702/QĐ-TTg ngày 03/7/2003 của Chính phủ do Phó Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ký.

Căn cứ vào Biên bản cuộc họp giữa Quân chủng PK-KQ và UBND tỉnh B số 02/BB-QB lúc 14h00 ngày 12/5/2003.

- Ngày 12/8/2003 Quân chủng PK-QK đã tiến hành bàn giao khu đất Tiểu đoàn 95 Trung đoàn 261/Sư đoàn 367/Quân chủng PK-KQ cho UBND tỉnh B. Diện tích đất bàn giao theo Quyết định số 702/QĐ-TTg ngày 03/7/2003 của Thủ tướng Chính phủ -Tổng diện tích đất là 231.966m2 cả d95/e261/f367 cho UBND tỉnh B tại C.L Phường 9 và Phường 10, cùng toàn bộ hồ sơ liên quan đến khu đất trên.

Theo yêu cầu của Tòa án nhân dân tỉnh, nay Trung đoàn TL261 không lưu giữ tờ bản đồ số 02 cũ có thửa 162 thuộc sổ mục kê năm 1990. Trung đoàn 261 thông báo để Tòa án tỉnh biết, xem xét, phối hợp, đề nghị các cơ quan chức năng địa phương có liên quan đến nguồn gốc, việc quản lý, sử dụng 300m2 đất do ông K khởi kiện (mà d95/e261/f367 quản lý trước đây) cung cấp để làm căn cứ giải quyết vụ án theo quy định pháp luật).

[5] Người làm chứng là bà N.T.D trình bày: Bà N.T.D là hàng xóm với gia đình ông K, không có bà con gì, bà D về sống ở đây khoảng năm 1992-1993 thì đã thấy gia đình ông K sử dụng đất này, trong đó có 300m2 đất mà Tòa án thẩm định.

[6] Người làm chứng là ông N.H.T trình bày: Ông N.H.T trình bày ông là hàng xóm với gia đình ông K, không có bà con gì, ông T về sống ở đây khoảng năm 1989 thì đã thấy gia đình ông K sử dụng khu đất này có hàng rào, đất dùng nuôi cá, trồng cây lâu năm, sau đó nuôi gà vịt, sử dụng ổn định đến nay.

[7] Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh B phát biểu quan điểm giải quyết vụ án:

Về trình tự thủ tục tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm đã thực hiện đúng theo quy định của Luật tố tụng hành chính. Người bị kiện không tham gia đối thoại là vi phạm Điều 60 Luật tố tụng hành chính. Tại phiên tòa, thẩm phán, hội đồng xét xử thực hiện đúng quy định về trình tự thủ tục tố tụng, các đương sự thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định.

Về nội dung:

- Về yêu cầu đòi bồi thường diện tích 300m2 đất bị thu hồi:

Tại buổi xem xét, thẩm định tại chổ tại hiện trường đất thu hồi 300m2, xác định các ranh giới sử dụng đất tứ cận vẫn còn nguyên vẹn; trên đất không có mốc giới thể hiện là đất do Trung đoàn 261 quản lý, sử dụng. Theo lời khai của người làm chứng ở gần đất ông K, thì từ năm 1989 khi ông T và năm 1992 bà D về sinh sống đã thấy gia đình ông K canh tác, sử dụng diện tích đất trên, có hàng rào, ranh giới rõ ràng cho đến nay còn nguyên vẹn. Cùng thời điểm ông K đăng ký Sổ mục kê và được UBND Phường 9 cấp giấy đăng ký đất đai thì Trung đoàn 261 tại khu vực Phường 9, Phường 10 cũng đăng ký thửa đất số 162, tờ bản đồ số 02 (cũ) trong sổ mục kê năm 1990. Tuy nhiên, trên thực tế thì không có tài liệu nào chứng tỏ Trung đoàn 261 quản lý, sử dụng thửa đất số 162, tờ bản đồ số 02 (cũ) một cách hợp pháp và theo quy định tại Quyết định số 499/QĐ-ĐC ngày 27/7/1995 của Tổng cục địa chính thì Sổ mục kê không được coi là một trong các giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại khoản 1 Điều 50 Luật đất đai năm 2003.

Theo người bị kiện và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện trình bày tại các văn bản gửi cho Tòa án, các buổi đối thoại và tại phiên tòa ngày 24/11/2021: Trong suốt thời gian trước năm 2003, Trung đoàn 261 cũng như cơ quan chủ quả của E261 chưa có bất kỳ một văn bản nào gửi tới cơ quan có thẩm quyền của địa phương đề nghị giải quyết có việc đất của E261 bị người dân lấn chiếm. Khoảng năm 1995, Cơ quan điều tra Bộ Quốc phòng đã khởi tố, bắt tạm giam một số quân nhân của Trung đoàn 261 do có liên quan đến việc vi phạm đất đai tại đơn vị E261. Tuy nhiên, qua rà soát số quân nhân và người vi phạm đất đai do lấn chiếm, mua bán, chuyển nhượng trái phép trong khu vực này thì không có hộ ông R.K.K. Tuy nhiên, ngày 26/6/2020 của Ủy ban nhân dân thành phố V ban hành Quyết định số 2841 nhưng không bồi thường giá trị quyền sử dụng diện tích 300m2 đất cho ông K là không có căn cứ, nên yêu cầu khởi kiện của ông K là có căn cứ chấp nhận.

- Đối với yêu cầu đòi bồi thường diện tích 1.350,2m2 theo đơn giá cụ thể tại thời điểm ban hành quyết định bồi thường cho ông K, nhận thấy:

Giá đất tính bồi thường theo Quyết định số 2841/QĐ-UBND ngày 26/6/2020 của Ủy ban nhân dân TP.V áp dụng Quyết định số 3239/QĐ-UBND ngày 06/11/2017 của UBND tỉnh B về việc phê duyệt giá đất để tính giá bồi thường là không đúng quy định tại khoản 2 Điều 74 Luật đất đai năm 2013, nên yêu cầu khởi kiện của ông K là có căn cứ chấp nhận.

Bởi các lẽ trên, Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 193 Luật tố tụng hành chính năm 2015, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông R.K.K. Ủy ban nhân dân thành phố V phải nộp theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử sơ thẩm nhận định:

[1] Về tố tụng: Người bị kiện được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa hai lần nhưng vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp tham gia phiên tòa. Người khởi kiện có người được ủy quyền tham gia phiên tòa; Người có quyền và nghĩa vụ liên quan có yêu cầu xét xử vắng mặt. Căn cứ Điều 157, Điều 158 Luật tố tụng hành chính, Hội đồng xét xử vắng mặt đương sự là đúng.

[2] Về đối tượng khởi kiện:

Ông R.K.K khởi kiện yêu cầu Tòa án: Hủy một phần Quyết định số 2841/QĐ-UBND ngày 26/06/2020 của của Ủy ban nhân dân (UBND) thành phố V về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ cho ông (bà) R.K.K do Nhà nước thu hồi đất, (gọi tắt là Quyết định số 2841). Yêu cầu buộc UBND thành phố V phải bồi thường diện tích đất 1.350,2m2 theo đơn giá đất cụ thể tại thời điểm ban hành quyết định bồi thường bổ sung cho ông K; buộc UBND thành phố V bồi thường, hỗ trợ bổ sung diện tích 300m2 đất còn thiếu theo giá đất cụ thể tại thời điểm ban hành quyết định bồi thường, hỗ trợ bổ sung cho ông K.

Các yêu cầu trên là đối tượng khởi kiện, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo khoản 1 Điều 30, khoản 4 Điều 32 Luật Tố tụng hành chính.

[3] Về xác định đương sự: Trong vụ án Hành chính, Tòa án chỉ xem xét việc ông K khởi kiện cầu hủy một phần Quyết định số 2841; Yêu cầu buộc UBND thành phố V bồi thường thêm đất, phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ về đất bị thu hồi cho ông K theo đúng pháp luật. Tòa án không giải quyết các tranh chấp về quyền sử dụng đất và tài sản, nếu có người nào tranh chấp về quyền sử dụng đất và tài sản trên đất với ông K có quyền khởi kiện bằng vụ án Dân sự.

[4] Về thời hiệu khởi kiện: Ngày 28/12/2020, Tòa án nhận đơn khởi kiện của ông R.K.K đối với Quyết định số 2841 là còn trong thời hiệu khởi kiện theo khoản 2 Điều 116 Luật tố tụng hành chính.

[5]: Về nội dung:

[5.1] Yêu cầu bồi thường bổ sung thêm 300m2 đất:

[5.1.1] Người bị kiện cho rằng: Tại Bản đồ Địa chính lập năm 1993 thì diện tích đất 300m2 có nguồn gốc đất quốc phòng, hiện nay Nhà nước quản lý (do Trung đoàn E261 đã đăng ký trong Sổ mục kê năm 1990 tại thửa 162 cũ, tờ bản đồ số 02 cũ). Ông K tự ý sử dụng nên không đủ điều kiện bồi thường theo Điều 82 Luật Đất đai năm 2013.

Xét thấy: Tại Khoản 15 Điều 4 Luật đất đai năm 2003 quy định: “Sổ mục kê đất đai là sổ được lập cho từng đơn vị xã, phường, thị trấn để ghi tên các thửa đất và các thông tin về thửa đất đó.” Tại Khoản 14 Điều 4 Luật đất đai năm 2003 thì: Sổ địa chính là sổ được lập cho từng đơn vị xã, phường, thị trấn để ghi người sử dụng đất và các thông tin về sử dụng đất của người đó.”.

Như vậy, sổ địa chính mới là tài liệu chính thức ghi thông tin về người sử dụng đất cũng như mục đích sử dụng đất (loại đất) để làm căn cứ xác định đất thuộc quyền quản lý, sử dụng của ai để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người đó chứ không phải là sổ mục kê. Trung đoàn E261 đăng ký trong Sổ mục kê, nhưng thực tế không sử dụng đất, không phải là căn cứ để công nhận quyền sử dụng đất theo khoản 1 Điều 50 Luật đất đai năm 2003 hoặc Khoản 1 Điều 100 Luật đất đai năm 2013.

Qua thẩm định ngày 02/12/2021 của Tòa án thì diện tích 300m2 đất thửa đất số 162 cũ, tờ bản đồ số 02 cũ, hiện gia đình ông K đang trực tiếp sử dụng, một phần giáp nhà đất ông K, các phần còn lại đều giáp đất và nhà (đã cũ) do người dân đang sử dụng, ranh đất được ông K rào lưới B40 và cọc Bê tông cũ do ông K làm, không có đất trống; quân đội không sử dụng đất. Trên đất gia đình ông K trồng cây lâu năm, cây hàng năm và chăn nuôi gà, vịt.

Ông K trình bày gia đình ông sử dụng đất từ năm 1978, là phù hợp với trình bày của những người sống lâu năm gần đất ông K là:

Bà N.T.D trình bày bà D về sống ở đây khoảng năm 1992-1993 thì đã thấy gia đình ông K sử dụng đất này.

Ông N.H.T trình bày ông về sống ở đây khoảng năm 1989 thì đã thấy gia đình ông K sử dụng khu đất này có hàng rào, đất dùng nuôi cá, trồng cây lâu năm, sau đó nuôi gà vịt, sử dụng ổn định đến nay.

[5.1.2] Người bị kiện cho rằng diện tích đất thu hồi thuộc đất Quốc phòng theo Quyết định số 331/QĐ-TM ngày 22/12/1983 của Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam giao cho Sư đoàn 367 quản lý theo sơ đồ khu vực E 760 – C.L giữa bên giao là Binh đoàn 318, bên nhận là Sư đoàn 367 thuộc Quân chủng Phòng không không quân. Tuy nhiên, không có bản chính hoặc bản sao y, chứng thực nên theo quy định tại khoản 1 Điều 82 Luật Tố tụng hành chính thì tài liệu này không được xác định là chứng cứ chứng minh đất tranh chấp đã được Nhà nước giao cho các đơn vị quốc phòng. Thực tế các đơn vị quốc phòng không sử dụng đất mà do gia đình ông K khai hoang sử dụng không ai tranh chấp, không bị xử lý vi phạm về đất đai.

Đối với Quyết định số 702/QĐ-TTg ngày 03/7/2003 của Thủ tướng Chính phủ về việc thu hồi đất của Quân chủng Phòng không - Không quân tại Phường 9 và Phường 10, thành phố V để giao cho Ủy ban nhân dân tỉnh B quản lý, với nội dung: Thu hồi 231.996m2 đất quốc phòng (trận địa Chí Linh - 295) giao cho Ủy ban nhân dân tỉnh B quản lý toàn bộ diện tích đất thu hồi trên để sử dụng vào mục đích phát triển kinh tế - xã hội; Ủy ban nhân dân tỉnh B và Bộ Quốc phòng có trách nhiệm xác định mốc giới và bàn giao khu đất cụ thể trên bản đồ và trên thực địa, đăng ký vào sổ địa chính nhà nước. Như đã phân tích ở trên, không có căn cứ xác định phần đất không bồi thường thuộc đất của Bộ Quốc phòng đã quản lý, sử dụng; nên diện tích 300m2 đất không thuộc đối tượng đất bị thu hồi theo Quyết định số 702/QĐ-TTg ngày 03/7/2003 của Thủ tướng Chính phủ nêu trên.

Như vậy, Đơn vị E261 không trực tiếp quản lý sử dụng đất, không xuất trình được quyết định giao đất hay giấy tờ về đất của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền chứng minh là người sử dụng đất hợp pháp. Đồng thời không có bản đồ lồng gép thể hiện 300m2 đất ông K đang sử dụng thuộc thửa đất số số 162 cũ, tờ bản đồ số 02 cũ do Đơn vị E261 đắng ký trong sổ mục kê. Do đó, Ủy ban nhân dân thành phố V cho rằng 300m2 đất thuộc đất của Quốc phòng, do hộ dân lấn chiếm và ban hành quyết định thu hồi và phê duyệt phương án bồi thường mà không bồi thường 300m2 đất của ông K là không có căn cứ.

Đất ông K sử dụng không ai tranh chấp (kể cả Đơn vị E261 hoặc cơ quan Nhà nước), không bị xử lý vi phạm về đất đai; do đó hộ ông K được bồi thường 300m2 đất nông nghiệp theo Khoản 1 Điều 75, Khoản 3 Điều 101 Luật đất đai năm 2013; Điểm a khoản 5 Điều 20 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15-5- 2014 của Chính phủ

[5.1.3] Hộ ông K trực tiếp sản xuất nông nghiệp, nên cả khi có chứng cứ chứng minh ông K lấn chiếm đất do Trung đoàn E261 đã đăng ký trong Sổ mục kê năm 1990; thì hộ ông K vẫn được bồi thường 300m2 đất nông nghiệp theo Khoản 2 Điều 77 Luật đất đai năm 2013.

[5.2] Yêu cầu bồi thường giá đất tại thời điểm thu hồi đất:

Tại Khoản 2 Điều 74 Luật đất đai năm 2013 quy định nguyên tắc bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất:

2. Việc bồi thường được thực hiện bằng việc giao đất có cùng mục đích sử dụng với loại đất thu hồi, nếu không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng tiền theo giá đất cụ thể của loại đất thu hồi do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định tại thời điểm quyết định thu hồi đất.”.

Tại điểm a Khoản 3 Điều 69 Luật đất đai năm 2013 quy định Trình tự, thủ tục thu hồi đất như sau:

“3. Việc quyết định thu hồi đất, phê duyệt và tổ chức thực hiện phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư được quy định như sau:

a) Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền quy định tại Điều 66 của Luật này quyết định thu hồi đất, quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư trong cùng một ngày;” Ngày 26/06/2020 Ủy ban nhân dân thành phố V ban hành Quyết định số 2838 về việc thu hồi 1.650,2m2 đất của ông (bà) R.K.K; cùng ngày 26/06/2020, UBND thành phố V ban hành Quyết định số 2841 phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ cho ông (bà) R.K.K; nhưng lại áp dụng Quyết định số 3239/QĐ- UB ngày 06/11/2017 của UBND dân tỉnh B là giá đất được ban hành từ năm 2017. Việc áp dụng giá đất cụ thể cách hơn 02 năm của UBND thành phố V là không đúng điểm a Khoản 3 Điều 69 và Khoản 2 Điều 74 Luật đất đai năm 2013; do đó ông K yêu cầu hủy nội dung về áp giá đất cụ thể để tính bồi thường là có căn cứ.

[6] Quan điểm của Viện kiểm sát đề nghị hủy một phần Quyết định số 2841 về diện tích đất và giá đất bồi thường; buộc Ủy ban nhân dân thành phố V phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ bổ sung đối với 300m2 đất và tính lại giá đất mới để bồi thường toàn bộ đất đã thu hồi cho ông K theo quy định pháp luật, là có cơ sở như phân tích và nhận định nêu trên, nên Hội đồng xét xử chấp nhận quan điểm của Viện kiểm sát.

[7] Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ án, đã được Hội đồng xét xử xem xét như trên.

[8] Từ các phân tích, nhận định trên và quan điểm của Viện kiểm sát; căn cứ điểm b khoản 2 Điều 193 Luật tố tụng hành chính;

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông K hủy phần “Diện tích đất bồi thường 1.350,20m2 và diện tích đất chưa bồi thường 300,00m2tại phần 1 Điều 1 và nội dung: “Bồi thường giá trị quyền sử dụng đất diện tích 1.350,20m2 đt nông nghiệp vị trí 2, đường loại 4 với đơn giá là 2.817.000 đồng/m2tại Mục A/ phần 1 Điều 1 Quyết định số 2841/QĐ-UBND ngày 26/06/2020 của UBND thành phố V. Buộc UBND thành phố V phải bồi thường diện tích đất 1.350,2m2 theo giá đất cụ thể tại thời điểm ban hành quyết định bồi thường bổ sung cho ông K. Buộc Ủy ban nhân dân thành phố V bồi thường, hỗ trợ bổ sung 300m2 đất còn thiếu theo giá đất cụ thể tại thời điểm ban hành quyết định bồi thường, hỗ trợ bổ sung cho ông K.

[9] Án phí sơ thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 32 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án thì ông R.K.K không phải nộp; Ủy ban nhân dân thành phố V phải nộp 300.000đ.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Điểm b khoản 2 Điều 193 Luật tố tụng hành chính;

Áp dụng: Điểm a khoản 3 Điều 69, Khoản 2 Điều 74, Khoản 1 Điều 75, Khoản 2 Điều 77, Khoản 3 Điều 101 Luật đất đai năm 2013; Điểm a khoản 5 Điều 20 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15-5-2014 của Chính phủ;

Khoản 2 Điều 32 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án; Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông R.K.K - Hủy nội dung: “Diện tích đất bồi thường 1.350,20m2 và diện tích đất chưa bồi thường 300m2tại phần 1 Điều 1 và nội dung: “Bồi thường giá trị quyền sử dụng đất diện tích 1.350,2m2 đt nông nghiệp vị trí 2, đường loại 4 với đơn giá là 2.817.000 đồng/m2tại Mục A/ phần 1 Điều 1 Quyết định số 2841/QĐ-UBND ngày 26/06/2020 của Ủy ban nhân dân thành phố V về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ cho ông (bà) R.K.K, địa chỉ số 66, đường Đ.Đ, phường T.N, thành phố V do Nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự án Hạ tầng kỹ thuật khu tái định cư phường T.N, thành phố V.

- Buộc Ủy ban nhân dân thành phố V thực hiện nhiệm vụ công vụ bồi thường, hỗ trợ bổ sung diện tích 300m2 đất còn thiếu tại Quyết định số 2841/QĐ-UBND ngày 26/06/2020 của của Ủy ban nhân dân thành phố V, theo giá đất cụ thể tại thời điểm ban hành quyết định bồi thường, hỗ trợ bổ sung cho ông K.

- Buộc Ủy ban nhân dân thành phố V bồi thường diện tích đất 1.350,2m2 theo giá đất cụ thể tại thời điểm ban hành quyết định bồi thường bổ sung cho ông K theo quy định pháp luật.

2. Án phí hành chính sơ thẩm: Ông R.K.K không phải nộp, trả lại cho ông R.K.K 300.000đ tiền tạm ứng án phí theo Biên lai thu số 0007390 ngày 24-01- 2021 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh B; Ủy ban nhân dân thành phố V phải nộp 300.000đ.

3. Thời hạn kháng cáo đối với bản án sơ thẩm là 15 ngày kể từ ngày tuyên án; đối với đương sự không có mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày bản án được giao cho họ hoặc được niêm yết. Đối với trường hợp đương sự đã tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt khi Tòa án tuyên án mà không có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân Cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

658
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về kiện quyết định hành chính quản lý đất đai số 67/2021/HC-ST

Số hiệu:67/2021/HC-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Cao Bằng
Lĩnh vực:Hành chính
Ngày ban hành:09/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về