Bản án về kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai số 56/2022/HC-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 56/2022/HC-PT NGÀY 07/03/2022 VỀ KIỆN QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH, HÀNH VI HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI

Ngày 07 tháng 03 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số 340/2021/TLPT- HC ngày 25 tháng 11 năm 2021 về việc “Kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai”; do Bản án hành chính sơ thẩm số 43/2021/HC-ST ngày 20 tháng 9 năm 2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk bị kháng cáo, kháng nghị; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 964/2022/QĐ-PT ngày 16 tháng 02 năm 2022, giữa các đương sự:

Người khởi kiện: Bà Lục Thị S. Địa chỉ: Hẻm 152 T, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. Đại điện theo ủy quyền của người khởi kiện: Bà Phùng Thị T. Địa chỉ: Hẻm 152 T, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

Người bị kiện: Ủy ban nhân dân thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. Đại diện theo ủy quyền: Ông Lê Đại T, chức vụ: Phó Chủ tịch, văn bản ủy quyền số 25/GUD-UBND ngày 05/4/2021. Địa chỉ: Tp. B, tỉnh Đắk Lắk. Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện: Ông Phạm Văn T, chức vụ: Phó Giám đốc Trung tâm phát triển quỹ đất Tp.B. Địa chỉ: thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, đơn khởi kiện bổ sung và quá trình tham gia tố tụng người khởi kiện bà Lục Thị S và đại điện theo ủy quyền của người khởi kiện đều trình bày:

Gia đình tôi được UBND thành phố B cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AM 442245 đối với thửa đất số 69 tờ bản đồ số 39 tại phường T, thành phố B. Gia đình chúng tôi ở ổn định trên thửa đất này và không có tranh chấp với ai, được cấp sổ hộ khẩu số 160 288 957.

Trên thửa đất được cấp, gia đình tôi xây dựng nhà ở. Sau đó, 02 con trai đầu của tôi là Lý A D và Lý Quốc H lập gia đình và xây thêm 02 căn nhà riêng trên đất, sử dụng ổn định từ trước cho tới khi UBND TP B ban hành Quyết định thu hồi đất và được chính quyền địa phương cấp sổ hộ khẩu từng hộ. Như vậy, tại thời điểm Nhà nước thu hồi đất thi thửa đất gia đình tôi bị thu hồi có 03 hộ gia đình sinh sống độc lập trên 03 căn nhà trên đất.

Trong suốt quá trình làm việc với Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố B thì trung tâm có cam kết gia đình tôi sẽ được nhận hỗ trợ tái định cư mỗi hộ gia đình sẽ được nhận 01 lô đất tái định cư. Tuy nhiên, tại buổi tham gia làm việc bố trí tái định cư với Trung tâm phát triển quỹ đất thì gia đình tôi chỉ được nhận bốc số đối với 02 lô đất tái định cư. Tôi đã lên trụ sở Trung tâm phát triển quỹ đất khiếu nại và khiếu nại nhiều lần qua đơn đề nghị giao thêm cho chung tôi 01 lô tái định cư để đảm bảo mỗi hộ gia đình đều có nơi sinh sống.

Ngày 09/11/2020, Trung tâm phát triển quỹ đất có gửi Công văn số 185/CV-TT PT QĐ trả lời trong đó có nội dung giải quyết khiếu nại xác định không có căn cứ để cấp thêm 01 lô đất tái định cư cho gia đình chúng tôi. Vì vậy, tôi đã khiếu nại lên UBND TP B, Chủ tịch UBND TP B đã trả lời bằng văn bản số 62/UBND-TTPTQĐ ngày 11/01/2021 cũng không chấp nhận đề nghị giao thêm 01 lô đất tái định cư cho gia đình tôi.

Vì vậy, tôi khởi kiện đến Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk đề nghị:

1/ Hủy Công văn số 62/UBND-TTPTQĐ ngày 11/01/2021 của UBND thành phố B trả lời đơn khiếu nại của bà Lục Thị S – địa chỉ 129/14 Nguyễn Du, phường T, TP B.

2/ Buộc UBND TP B giao thêm cho hộ gia đình chúng tôi 01 lô đất tái định cư theo quy định pháp luật cho gia đình tôi.

Quá trình làm việc tại Tòa án, ông Đoàn Ngọc Thượng là đại diện theo ủy quyền của người bị kiện là UBND TP. B trình bày:

Ngày 27/8/2019, UBMD TP B đã ban hanh Quyết định thu hồi đất số 5595/QĐ-UBND về việc thu hồi 929,6m2 đất của hộ bà Lục Thị S sử dụng đất tại phường T, TP. B, Quyết định số 5614/QĐ-UBND ngày 27/8/2019 của UBND TP B về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất để xây dựng công trình: Hồ thủy lợi E, phường T, TP. B (đợt 2).

Về công tác bồi thường, hỗ trợ: Tổng kinh phí bồi thường, hỗ trợ của hộ bà Lục Thị S là 2.888.256.845 đồng, bao gồm bồi thường về đất, tài sản nhà của bà Lục Thị S, nhà của Lý Quốc H và nhà của Lý A D (là 02 người con của bà S). Bà S đã nhận đủ tiền bồi thường, hỗ trợ theo phương án và có cam kết bàn giao mặt bằng.

Về tái định cư: Nhà nước thu hồi 300m2 đất ở và 629,6m2 đất nông nghiệp. Hộ bà S được giao 02 lô đất tái định cư tại khu Tân phong, phường Tân Hòa, TP. B tại Quyết định 6733/QĐ-UBND ngày 15/9/2020 về việc phê duyệt phương án tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự án: Hồ thủy lợi E, phường T, TP B.

Việc UBND TP B giao 02 lô đất tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất của bà Lục Thị S là thực hiện đúng theo điểm 2, khoản 1, điều 1 Quyết định số 27/2019/QĐ-UBND ngày 19/12/2019 của UBND tỉnh Đắk Lắk về việc sửa đổi bổ sung một số quy định liên quan đến bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn các tỉnh tại các Quyết định của UBND tỉnh Đắk Lắk, hộ dân đã hoàn tất thủ tục để được cấp GCNQSD đất theo quy định. Việc hộ bà Lục Thị S đề nghị giao thêm 01 lô đất tái định cư là không có cơ sở. Do đó, đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk bác đơn khởi kiện của bà Lục Thị S.

Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 43/2021/HCST ngày 20/9/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk quyết định:

Căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 193, Điều 348 Luật Tố tụng hành chính Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Lục Thị S về các yêu cầu sau:

1. Hủy Công văn số 62/UBND-TTPTQĐ ngày 11/01/2021 của UBND thành phố B về việc trả lời đơn khiếu nại của bà Lục Thị S, địa chỉ 129/14 Nguyễn Du, phường T, thánh phố B, tỉnh Đắk Lắk.

2. Buộc UBND TP B giao thêm cho hộ gia đình bà Lục Thị S 01 lô đất tái định cư theo quy định pháp luật.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về phần án phí, tuyên quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 30 tháng 9 năm 2021, người khởi kiện bà Lục Thị S kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa án sơ thẩm với nội dung: Hủy Công văn số 62/UBND-TTPTQĐ ngày 11/01/2021 của UBND thành phố B và buộc UBND TP B giao thêm cho hộ gia đình của bà 01 lô đất tái định cư theo quy định pháp luật.

Ngày 01/10/2021, Viện trưởng VKSND tỉnh Đắk Lắk ban hành Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 935/QĐ-VKS-HC đề nghị HĐXX phúc thẩm sửa án sơ thẩm với nội dung: Hủy Công văn số 62/UBND-TTPTQĐ ngày 11/01/2021 của UBND thành phố B; buộc UBND TP B giao thêm cho hộ gia đình của bà Lục Thị S 01 lô đất tái định cư theo quy định pháp luật.

Tại phiên tòa phúc thẩm: Các đương sự có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng vẫn giữ nguyên Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 935/QĐ-VKS-HC ngày 01/10/2021 của Viện trưởng VKSND tỉnh Đắk Lắk và có ý kiến: Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa phúc thẩm, trình tự thủ tục phiên tòa đã được Hội đồng xét xử tuân thủ theo đúng quy định. Về nội dung: Án sơ thẩm đã giải quyết không đúng theo các quy định của pháp luật, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận đơn kháng cáo của bà Lục Thị S và Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 935/QĐ-VKS-HC ngày 01/10/2021 của Viện trưởng VKSND tỉnh Đắk Lắk; sửa án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra và kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện tài liệu chứng cứ, ý kiến của những người tham gia tố tụng và ý kiến Kiểm sát viên tham gia phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa hôm nay, tất cả các đương sự đều gửi đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, HĐXX tiếp tục tiến hành phiên tòa không có mặt của các đương sự theo quy định.

[2] Về nội dung: Xét thấy Bà Lục Thị S được UBND thành phố B cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AM 442245 đối với thửa đất số 69, tờ bản đồ số 39 tại phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk với diện tích 934m2 (trong đó có 300m2 đất ở đô thị và 634m2 đất trồng cây hàng năm khác). Diện tích đo đạc theo hiện trạng là 929,6m2, giảm 4,4m2 so với Giấy CNQSDĐ là do sai số giữa hai lần đo đạc. Trên thửa đất này, gia đình bà S đã xây dựng nhà ở ổn định, sau đó, 02 con trai của bà là Lý A D và Lý Quốc H lập gia đình, xây thêm 02 căn nhà riêng trên đất, sử dụng ổn định và được cấp sổ hộ khẩu riêng cho từng hộ. Như vậy, tại thời điểm Nhà nước thu hồi đất thì thửa đất gia đình bà Lục Thị S có 03 hộ gia đình sinh sống độc lập trên 03 căn nhà trên đất bị thu hồi. Ngày 27/8/2019, UBND thành phố B đã ban hành Quyết định số 5595/QĐ- UBND về việc thu hồi 929,6m2 đất của bà Lục Thị S để thực hiện dự án Hồ thủy lợi E, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. Ngày 27/8/2019, UBND thành phố B ban hành Quyết định số 5614/QĐ-UBND về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và chi phí tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất để để thực hiện dự án Hồ thủy lợi E, phường T, thành phố B (đợt 2), theo đó hộ của bà Lục Thị S được bồi thường toàn bộ tài sản là 2.888.256.845đ. Ngày 15/9/2020, UBND thành phố B ban hành Quyết định số 6733/QĐ-UBND về việc phê duyệt phương án tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự án Hồ thủy lợi E, phường T, thành phố B, theo đó hộ bà S được giao 02 lô đất tái định cư, lô 161 có diện tích 130,05m2 giá 910.350.000đ, lô 155 có diện tích 116,07m2 giá 1.044.630.000đ. bà S không đồng ý việc chỉ giao 02 lô đất nên đã khiếu nại và được UBND thành phố B ban hành Công văn số 62/UBND-TTPTQĐ ngày 11/01/2021 không chấp nhận, nên bà khởi kiện yêu cầu hủy Công văn trên và giao thêm cho bà 01 lô đất.

[3] Xét kháng cáo của bà Lục Thị S, HĐXX thấy rằng: Việc UBND thành phố B ban hành Quyết định số 6733/QĐ- UBND ngày 15/9/2020 về việc phê duyệt phương án tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất không cùng một ngày với ngày ban hành quyết định thu hồi đất là trái với quy định tại điểm a, khoản 3 Điều 69 Luật đất đai 2013:“Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền quy định tại Điều 66 của Luật này quyết định thu hồi đất, quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hổ trợ, tái định cư trong cùng một ngày”. Nếu Quyết định số 6733/QĐ-UBND về việc phê duyệt phương án tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất được ban hành cùng một ngày với ngày ban hành quyết định thu hồi đất (ngày 27/8/2019) thì căn cứ khoản 1 Điều 6 Quyết định số 39/2014/QĐ-UBND ngày 10/11/2014 của UBND tỉnh Đắk Lắk quy định “Trường hợp trong hộ gia đình có nhiều thế hệ, nhiều cặp vợ chồng cùng chung sổng trên một thửa đất ở bị thu hồi, đủ điều kiện tách thành từng hộ riêng theo quy định của pháp luật về cư trú thì căn cứ vào quỹ đất của địa phương, mỗi cặp vợ chồng đủ điều kiện tách hộ được xem xét giao một (01) thửa đất tại khu tái định cư để làm nhà ở có thu tiền sử dụng đất theo giá đất cụ thể do UBND tỉnh quyết định tại khu tái định cư đó”. Theo quy định nêu trên thì hộ gia đình bà Lục Thị S đủ điều kiện để được xem xét giao 03 thửa đất tại khu tái định cư để làm nhà ở. Nhưng do UBND thành phố B ban hành quyết định phê duyệt phương án tái định cư vào ngày 15/9/2020, UBND thành phố B đã căn cứ Quyết định số 27/2019/QĐ- UBND ngày 19/12/2019 của UBND tỉnh Đắk Lắk (không căn cứ Quyết định số 39/2014/QĐ-UBND ngày 10/11/2014 của UBND tỉnh Đắk Lắk) giao cho hộ bà Lục Thị S 02 thửa đất tái định cư là không đúng pháp luật, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của hộ gia đình bà Lục Thị S. Do vậy, kháng cáo của bà S yêu cầu hủy Công văn số 62/UBND-TTPTQĐ ngày 11/01/2020 của UBND thành phố B về việc trả lời đơn khiếu nại và đề nghị UBND thành phố B giao thêm 01 lô đất tái định cư cho hộ gia đình bà Lục Thị S là có căn cứ, cần được chấp nhận.

[4] Xét Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 935/QĐ-VKS-HC ngày 01/10/2021 của Viện trưởng VKSND tỉnh Đắk Lắk; HĐXX thấy rằng: Nội dung kháng nghị giống như nội dung kháng cáo của bà Lục Thị S đã được HĐXX nhận định tại phần [3], nên có căn cứ chấp nhận.

[5] Từ nhận định trên đây, xét thấy án sơ thẩm xét xử không chấp nhận đơn kiện của bà Lục Thị S là ảnh hưởng đến quyền lợi của bà, việc kháng cáo của bà S và kháng nghị của Viện kiểm sát sửa án sơ thẩm là có căn cứ. HĐXX chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, chấp nhận đơn khởi kiện và kháng cáo của bà S về yêu cầu hủy Công văn số 62/UBND-TTPTQĐ ngày 11/01/2020 của UBND thành phố B về việc trả lời đơn khiếu nại và đề nghị UBND thành phố B giao thêm 01 lô đất tái định cư cho hộ gia đình bà Lục Thị S [6] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.

[7] Người kháng cáo được chấp nhận nên không phải chịu án phí hành chính phúc thẩm, UBND thành phố B phải chịu án phí hành chính sơ thẩm theo quy định.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 241, Điều 242 Luật tố tụng hành chính năm 2015;

 1/ Chấp nhận kháng cáo của bà Lục Thị S và Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 935/QĐ-VKS-HC ngày 01/10/2021 của Viện trưởng VKSND tỉnh Đắk Lắk; sửa Bản án hành chính sơ thẩm số 43/2021/HCST ngày 20/9/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk.

Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 193, Điều 348 Luật Tố tụng hành chính Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận đơn khởi kiện của bà Lục Thị S về các yêu cầu: Hủy Công văn số 62/UBND-TTPTQĐ ngày 11/01/2021 của UBND thành phố B về việc trả lời đơn khiếu nại của bà Lục Thị S, địa chỉ 129/14 Nguyễn Du, phường T, thánh phố B, tỉnh Đắk Lắk. Đề nghị UBND thành phố B giao thêm cho hộ gia đình bà Lục Thị S 01 lô đất tái định cư theo quy định pháp luật.

Tuyên bố: Hủy Công văn số 62/UBND-TTPTQĐ ngày 11/01/2021 của UBND thành phố B về việc trả lời đơn khiếu nại của bà Lục Thị S, địa chỉ 129/14 Nguyễn Du, phường T, thánh phố B, tỉnh Đắk Lắk. Đề nghị UBND thành phố B giao thêm cho hộ gia đình bà Lục Thị S 01 lô đất tái định cư theo quy định pháp luật.

2/Án phí hành chính: UBND thành phố B phải chịu 300.000đ án phí hành chính sơ thẩm; bà Lục Thị S không phải chịu án phí phúc thẩm.

3/Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án hành chính phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (07/3/2022). 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

707
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai số 56/2022/HC-PT

Số hiệu:56/2022/HC-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hành chính
Ngày ban hành: 07/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về