Bản án về kiện ly hôn và tranh chấp nuôi con chung số 33/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN EA H’LEO, TỈNH ĐĂK LĂK

BẢN ÁN 33/2022/HNGĐ-ST NGÀY 13/06/2022 VỀ KIỆN LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON CHUNG

Ngày 13/6/2022 tại phòng xử án, Toà án nhân dân huyện Ea H’Leo mở phiên toà xét xử công khai vụ án Hôn nhân và gia đình sơ thẩm thụ lý số 110/2022/TLST-HNGĐ ngày 24/3/2022 về việc “Kiện ly hôn và tranh chấp nuôi con chung”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 29/2022/QĐST-HNGĐ ngày 04/5/2022 và quyết định hoãn phiên tòa số 25/2022/QĐST-HNGĐ ngày 24/5/2022, giữa:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Huỳnh Anh Th, sinh năm 1998. Có đơn xin xét xử vắng mặt.

Nơi cư trú: Thôn 2, xã E, huyện H, tỉnh Đăk Lăk.

Bị đơn: Anh Trần Bá X, sinh năm 1998. Vắng mặt lần thứ hai không có lý do.

Nơi cư trú: Buôn Tùng T, xã E, huyện H, tỉnh Đăk Lăk.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án chị Th là nguyên đơn trình bày:

Về hôn nhân: Chị Nguyễn Huỳnh Anh Th và anh Trần Bá X về chung sống với nhau từ năm 2018 đăng ký kết hôn tại UBND xã E, huyện H, tỉnh Đăk Lăk, kết hôn là hoàn toàn tự nguyện, sau khi về sống chung hạnh phúc được một thời gian. Đến năm 2020 phát sinh nhiều mâu thuẫn, nên cuộc sống hôn nhân không có hạnh phúc, hiện tại chị Th và anh X cũng đã sống ly thân, nay chị Th yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh X.

Về con chung: Chị Th và anh X có 01 người con chung là Trần Ngôn H, sinh ngày 18/6/2018, chị Th có nguyện vọng nuôi con.

Về cấp dưỡng nuôi con: Nếu được nuôi con chị Th không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản và nợ chung: Chị Th không yêu cầu giải quyết về tài sản và nợ chung.

Quá trình điều tra thu thập tài liệu, chứng cứ anh Trần Bá X là bị đơn: Cố tình lẩn tránh, không hợp tác nên không ghi nhận được ý kiến của anh X và anh X cũng không cung cấp tài liệu, chứng cứ nào có liên quan đến vụ án cũng như không có văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của chị Th.

Phát biểu của Kiểm sát viên:

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên tham gia phiên tòa khẳng định:

Về thủ tục tố tụng: Quá trình thu thập tài liệu, chứng cứ, Tòa án thực hiện đầy đủ và đúng trình tự theo quy định của pháp luật về tố tụng. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử và những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng đã chấp hành đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ và lời khai của đương sự do chủ tọa phiên tòa đã công bố tại phiên tòa thể hiện việc chị Th khởi kiện yêu cầu ly hôn là có căn cứ. Vì vậy, đề nghị HĐXX áp dụng khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 53; khoản 1 Điều 56; Điều 57 Luật hôn nhân và gia đình. Cho chị Th ly hôn với anh X.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1]. Pháp luật về tố tụng: Việc chị Nguyễn Huỳnh Anh Th khởi kiện yêu cầu ly hôn với anh Trần Bá X, Toà án thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành triệu tập các đương sự đến Tòa án để công khai chứng cứ và hòa giải, nhưng anh X vẫn vắng mặt không có lý do, gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án, nên Tòa án không thể tiến hành công khai chứng cứ và hòa giải giữa các đương sự được mà tiến hành xác minh, niêm yết các văn bản tố tụng tại nơi anh X cư trú. Theo quy định tại khoản 1 Điều 207, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án không tiến hành hòa giải được và tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn. Nguyên đơn chị Th có đơn xin xét xử vắng mặt, căn cứ điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt tất cả những người tham gia tố tụng.

[2]. Pháp luật về nội dung:

Về hôn nhân: Chị Nguyễn Huỳnh Anh Th và anh Trần Bá X về chung sống với nhau từ năm 2018 đăng ký kết hôn tại UBND xã E, huyện H, tỉnh Đăk Lăk theo giấy chứng nhận kết hôn số 92 ngày 31/5/2018. Đến năm 2020 phát sinh nhiều mâu thuẫn, cuộc sống hôn nhân không có hạnh phúc, nên chị Th và anh X đã sống ly thân, nay chị Th yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh X.

Căn cứ vào lời khai của các đương sự và qua xác minh tại chính quyền địa phương thì chị Th và anh X thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do tính tình không hợp. Do đó, xét thấy mâu thuẫn giữa chị Th và anh X ngày càng trầm trọng, giữa hai người không còn thương yêu, chăm sóc, quý trọng lẫn nhau, thực tế hôn nhân không còn tồn tại. Vì vậy, việc chị Th yêu cầu ly hôn với anh X là có căn cứ, nên cần chấp nhận.

Về con chung: Chị Th và anh X có 01 người con chung là Trần Ngôn H, sinh ngày 18/6/2018. Xét nguyện vọng và khả năng nuôi con chung của chị Th, cần giao con chung cho chị Th trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi là phù hợp.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Th không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con, nên không đặt ra để giải quyết.

Anh X có quyền đi lại thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung, không ai được cản trở. Vì lợi ích của con chung các bên có quyền yêu cầu thay đổi việc nuôi con chung và mức cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản và nợ chung: Chị Th không yêu cầu giải quyết về tài sản và nợ chung, nên không đề cập xem xét.

[3]. Về án phí: Chị Th phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự;

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Căn cứ khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 53; khoản 1 Điều 56; Điều 57 Luật hôn nhân và gia đình;

Cho chị Nguyễn Huỳnh Anh Th được ly hôn với anh Trần Bá X.

2. Về nuôi con chung: Căn cứ vào Điều 58; Điều 81; Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình;

2.1. Giao con chung là Trần Ngôn H, sinh ngày 18/6/2018 cho chị Th trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng, cho đến khi con chung đủ 18 tuổi.

2.2. Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Th không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con, nên không đặt ra để giải quyết.

Anh X có quyền đi lại thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung, không ai được cản trở. Vì lợi ích của con chung các bên có quyền yêu cầu thay đổi việc nuôi con chung và mức cấp dưỡng nuôi con chung.

3. Về tài sản và nợ chung: Chị Th không yêu cầu giải quyết về tài sản và nợ chung, nên không đề cập xem xét.

4. Về án phí: Căn cứ vào khoản 3 Điều 144; khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự.

Căn cứ vào khoản 5 Điều 19; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTUQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí tòa án;

Chị Nguyễn Huỳnh Anh Th phải chịu 300.000 đồng tiền án phí LHST, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục THADS huyện Ea H’Leo theo biên lai số AA/2021/0010909 ngày 21/3/2022.

5. Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào Điều 271; khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

15
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về kiện ly hôn và tranh chấp nuôi con chung số 33/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:33/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ea H'leo - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 13/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về