Bản án về kiện đòi tài sản, yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu, tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 67/2023/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN L, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 67/2023/DS-ST NGÀY 23/08/2023 VỀ KIỆN ĐÒI TÀI SẢN, YÊU CẦU TUYÊN BỐ HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU, TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 23 tháng 8 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 39/2019/TLST–DS, ngày 19 tháng 02 năm 2019 về việc “Kiện đòi tài sản, yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu, tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 104/2023/QĐXXST–DS ngày 19 tháng 7 năm 2023, Quyết định hoãn phiên tòa số 913/2023/QĐST–DS ngày 07/8/2023 , giữa các đương sự:

1/ Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Mỹ L, sinh năm 1967.

Địa chỉ thường trú: Số 25, tổ 9, ấp 1, xã A, huyện L, tỉnh Đồng Nai.

2/ Bị đơn: Ông Vũ Đức N, sinh năm 1947.

Địa chỉ thường trú: Tổ 16, khu Văn Hải, thị trấn L, huyện L, tỉnh Đồng Nai.

Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Ông Trần Thái B, sinh năm 1975 (Văn bản ủy quyền ngày 04/4/2019).

Địa chỉ liên lạc: 01/2/40 đường số 1, phường B, quận G, thành phố Hồ Chí Minh.

3/ Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

3.1/ Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1953.

Địa chỉ thường trú: Tổ 16, khu Văn Hải, thị trấn L, huyện L, tỉnh Đồng Nai.

Người đại diện theo ủy quyền của bà Nguyễn Thị H: Ông Trần Thái B, sinh năm 1975 (Văn bản ủy quyền ngày 04/4/2019).

Địa chỉ liên lạc: 01/2/40 đường số 1, phường B, quận G, thành phố Hồ Chí Minh.

3.2/ Ông Cao Minh H, sinh năm 1963.

Địa chỉ thường trú: Ấp Hàng Gòn, xã L, huyện L, tỉnh Đồng Nai.

Chỗ ở: 63 đường Lê Thánh Tông, tổ 8, khu Phước Hải, thị trấn L, huyện L, tỉnh Đồng Nai.

Người đại diện theo ủy quyền của ông Cao Minh H: Ông Phan Lộc Bình S, sinh năm 1983 (Văn bản ủy quyền ngày 08/4/2020).

Địa chỉ thường trú: Ấp 10, xã Bình Sơn, huyện L, tỉnh Đồng Nai.

3.3/ Ông Nguyễn Quốc T, sinh năm 1980 và bà Dương Thị N, sinh năm 1980.

Cùng địa chỉ thường trú: Tổ 8, khu Phước Hải, thị trấn L, huyện L, tỉnh Đồng Nai.

3.4/ Ông Hầu Tắc B, sinh năm 1980.

Địa chỉ cư trú cuối cùng: Ấp B 2, xã B, thành phố L, tỉnh Đồng Nai.

3.5/ Ông Phạm Văn N, sinh năm 1958

3.6/ Bà Vũ Thị H, sinh năm 1958 Địa chỉ thường trú: 240/15 đường Lê Duẫn, tổ 2, ấp 3, xã A, huyện L, tỉnh Đồng Nai.

Người đại diện theo ủy quyền của bà Vũ Thị H: Ông Phạm Văn N, sinh năm 1958 (Văn bản ủy quyền ngày 09/11/2021).

Địa chỉ thường trú: 240/15 đường Lê Duẫn, tổ 2, ấp 3, xã A, huyện L, tỉnh Đồng Nai.

3.7/ Phòng Công chứng số 4, tỉnh Đồng Nai.

Địa chỉ: Đường Lê Duẫn, khu Phước Hải, thị trấn L, huyện L, tỉnh Đồng Nai.

3.8/ Văn phòng Công chứng S, tỉnh Đồng Nai.

Địa chỉ: Quốc Lộ 51, ấp Đất Mới, xã P, huyện L, tỉnh Đồng Nai.

4/ Người làm chứng: Ông Đỗ Văn L, sinh năm 1980.

Địa chỉ thường trú: 115/10/1 Lê Trọng Tấn, phường S, quận T, thành phố Hồ Chí Minh.

(Bà L, ông B, ông N, ông S có mặt; Ông N, bà H, ông T, bà N, ông H, ông B, bà H, Phòng Công chứng số 4, Văn phòng Công chứng S vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Nguyên đơn bà Nguyễn Thị Mỹ L trình bày:

Vào ngày 07/01/2014, bà có nhận chuyển nhượng của vợ chồng ông Nguyễn Quốc T và bà Dương Thị N diện tích đất 44,4m2, thuộc thửa đất số 44, tờ bản đồ số 54, thị trấn L, huyện L, được UBND huyện L cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BC 637879 ngày 29/8/2012 cho ông Nguyễn Quốc T, giá chuyển nhượng 250.000.000 đồng. Bà và vợ chồng ông T ký kết Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thửa 44, tờ bản đồ số 54, thị trấn L tại Văn phòng Công chứng S, địa chỉ: Ấp Phước Hòa, xã P, huyện L, tỉnh Đồng Nai. Đến ngày 17/01/2014, bà được UBND huyện L cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đối với thửa đất 44 trên bằng hình thức đăng ký biến động trang 4 của Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Khi hỏi mua diện tích đất 44,4m2, thửa đất 44 trên, ông T có dẫn bà đến xem đất, nhưng nhà đóng cửa, không có vợ chồng ông N2 ở nhà. Sau đó, bà có đến thêm 01 lần nữa, nhưng vẫn không có ông N2, bà H2 ở nhà, nhưng bà vẫn nhận chuyển nhượng thửa 44. Bà thừa nhận, khi hỏi chuyển nhượng thửa đất số 44, ông T có nói bà biết có vợ chồng ông N2 đang ở nhờ.

Trước khi vợ chồng ông T chuyển nhượng thửa đất số 44 trên cho bà, ông T có nói cho bà biết thửa đất số 44 trên là do ông N, bà H mượn Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của vợ chồng ông N2 thế chấp cho ông H để ông N, bà H vay tiền của ông H. Sau đó, ông H thế chấp lại cho vợ chồng ông T, bà N2 để cho ông B2 vay tiền của ông T, bà N2 bằng hình thức ký kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, do ông B2 không trả tiền cho vợ chồng ông T, bà N2 nên ông T, bà N2 sang tên và chuyển nhượng lại cho bà, nhưng bà vẫn đồng ý nhận chuyển nhượng.

Khi nhận chuyển nhượng diện tích đất 44,4m2, thửa đất số 44, tờ bản đồ số 54 thị trấn L, bà biết ông N2, bà H2 đang sinh sống tại nhà và đất mà bà nhận chuyển nhượng của ông T, bà N2. Khoảng năm 2014, bà có gặp ông N2, bà H2 yêu cầu ông N2, bà H2 dọn đi nơi khác sinh sống, trả nhà và đất lại cho bà, nhưng ông N2, bà H2 không đồng ý nên sau đó bà khởi kiện tại Tòa án.

Bà xác định, bà chỉ nhận chuyển nhượng thửa đất số 44, tờ bản đồ số 54 thị trấn L, không nhận mua nhà bên trên thửa đất số 44 trên. Vợ chồng ông T, bà N2 chỉ chuyển nhượng thửa đất số 44 trên cho bà, không có bán nhà trên thửa đất số 44.

Bà giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, bà yêu cầu ông N2 và bà H2 trả lại nhà và quyền sử dụng đất diện tích 44,4m2 (bên dưới căn nhà), thuộc thửa đất số 44, tờ bản đồ số 54 thị trấn L, huyện L, tỉnh Đồng Nai. Bà tự nguyện hỗ trợ ông N2, bà H2 chi phí di dời và tìm nơi ở mới với số tiền là 40.000.000 đồng.

Bà không đồng ý toàn bộ yêu cầu phản tố của bị đơn về việc yêu cầu tuyên bố vô hiệu đối với: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được ký kết giữa ông Vũ Đức N, bà Nguyễn Thị H với ông Cao Minh H, công chứng số 234/2010, quyển số 03/2010 TP/CC – SCC/HĐCN ngày 31/12/2010 tại Văn phòng Công chứng số 4, tỉnh Đồng Nai; Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được ký kết giữa ông Cao Minh H với ông Nguyễn Quốc T, công chứng số 1557/2012, quyển số 04/2012 TP/CC – SCC/HĐCN ngày 18/4/2012 tại Văn phòng Công chứng S, tỉnh Đồng Nai; Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được ký kết giữa ông Nguyễn Quốc T, bà Dương Thị N với bà Nguyễn Thị Mỹ L, công chứng số 0111/2014, quyển số 04/2012 TP/CC – SCC/HĐCN ngày 07/01/2014 tại Văn phòng Công chứng S, tỉnh Đồng Nai. Do việc ký kết các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên là hợp pháp, đúng quy định pháp luật.

Bà không có ý kiến đối với yêu cầu độc lập của ông Cao Minh H về việc yêu cầu ông N2, bà H2 trả cho ông H số tiền 210.000.000 đồng, không yêu cầu lãi suất. Đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật.

* Ông Trần Thái B là người đại diện theo ủy quyền của bị đơn ông Vũ Đức N, đồng thời là người đại diện theo ủy quyền của bà Nguyễn Thị H là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày:

Vào năm 2010 vợ chồng ông N2 cho em rể là Phạm Văn N mượn Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của thửa đất 44, tờ bản đồ số 54 thị trấn L thế chấp vay tiền của ông Cao Minh H số tiền 250.000.000 đồng lo việc cho bà H (em ruột của ông N2) là vợ ông N khắc phục hậu quả trong vụ án kinh tế. Do yêu cầu của ông H, vợ chồng ông N2 phải ra Phòng công chứng số 4 ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất để làm tin, đảm bảo cho việc vay tiền.

Sau khi công chứng chuyển nhượng đất làm tin như trên, ông H có làm “Giấy thỏa thuận” ngày 02/01/2011 về việc trả lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho gia đình ông N2, nếu ông N2 và bà H trả lại 250.000.000 đồng trong vòng 06 tháng, giấy này do ông H tự lập ra, vợ chồng ông N2, bà H2 không ký nhận, không nhận 250.000.000 đồng, vì ông N2, bà H2 ký hợp đồng chuyển nhượng trên nhằm đảm bảo cho việc vay tiền của ông N, bà H, không có bán nhà, chuyển nhượng đất nên không chấp nhận giao nhà.

Sau đó vợ chồng ông N, bà H có trả cho ông H 40.000.000 đồng, ông H có viết “Giấy biên nhận” ngày 23/10/2013 với bà H.

Sau này, ông N2 biết được ông H tự ý làm thủ tục sang tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông H đứng tên đối với thửa 44 trên. Sau đó, ông H nhờ ông Hầu Tắc B thế chấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của thửa 44 cho vợ chồng ông T để vay 150.000.000 đồng.

Khi không có khả năng trả nợ gốc và lãi, ông H ký kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, sang tên cho vợ chồng ông T đứng tên chủ sử dụng thửa đất 44 trên. Sau đó, ông T chuyển nhượng và sang tên quyền sử dụng đất của thửa 44 trên cho Bà L2 và Bà L2 được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bằng hình thức đăng ký biến động trang 4 của Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Ông N2 không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Bà L2. Vì:

Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thửa đất 44 trên, được ký kết giữa vợ chồng ông N2 và ông Cao Minh H vào ngày 31/12/2010 nhằm mục đích đảm bảo việc thanh toán nợ của ông N, bà H cho ông H;

Ông Cao Minh H thừa nhận, ông không có giao dịch chuyển nhượng thửa đất số 44 trên;

Ngoài ra, trước khi nhận chuyển nhượng thửa đất số 44, tờ bản đồ số 54 thị trấn L, nguyên đơn biết rõ do ông N, bà H mượn Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của thửa 44 trên thế chấp cho ông Cao Minh H nhằm mục đích vay tiền của ông H. Sau đó, ông H thế chấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên cho vợ chồng ông T để vợ chồng ông T cho ông Hầu Tắc B vay tiền, do ông B2 không trả tiền cho vợ chồng ông T nên vợ chồng ông T sang tên, sau đó chuyển nhượng lại cho bà. Khi nhận chuyển nhượng thửa đất 44 trên, nguyên đơn biết rõ ông N2, bà H2 vẫn đang sinh sống trên đất chuyển nhượng, nhưng bà vẫn nhận chuyển nhượng.

Ông N2 không đồng ý đối với yêu cầu độc lập của ông H về việc yêu cầu vợ chồng ông N2 trả cho ông H số tiền 210.000.000 đồng. Vì vợ chồng ông N2 không có vay bất cứ khoản tiền gì của ông H. Số nợ 250.000.000 đồng là do vợ chồng ông N, bà H vay của ông H, không phải vợ chồng ông N2 vay của ông H. Ông H không có tài liệu, chứng cứ chứng minh vợ chồng ông N2 có vay của ông H 250.000.000 đồng. Do đó, ông đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu độc lập của ông H đối với ông N2 và bà H2.

Ông N2 vẫn giữ nguyên yêu cầu phản tố, yêu cầu tuyên bố vô hiệu đối với 03 hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, gồm: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được ký kết giữa ông Vũ Đức N, bà Nguyễn Thị H với ông Cao Minh H, công chứng số 234/2010, quyển số 03/2010 TP/CC – SCC/HĐCN ngày 31/12/2010 tại Văn phòng Công chứng số 4, tỉnh Đồng Nai; Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được ký kết giữa ông Cao Minh H với ông Nguyễn Quốc T, công chứng số 1557/2012, quyển số 04/2012 TP/CC – SCC/HĐCN ngày 18/4/2012 tại Văn phòng Công chứng S, tỉnh Đồng Nai; Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được ký kết giữa ông Nguyễn Quốc T, bà Dương Thị N với bà Nguyễn Thị Mỹ L, công chứng số 0111/2014, quyển số 04/2012 TP/CC – SCC/HĐCN ngày 07/01/2014 tại Văn phòng Công chứng S, tỉnh Đồng Nai. Do 03 hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên đều là giả tạo nhằm mục đích che dấu giao dịch vay tiền, không đúng hiện trạng thực tế, không thể thực hiện được.

Bà Nguyễn Thị H thống nhất đối với lời trình bày của ông N2, không bổ sung thêm. Trong vụ án này, bà H2 không có yêu cầu độc lập.

* Ông Cao Minh H là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (trình bày tại hồ sơ) và ông Phan Lộc Bình S là người đại diện theo ủy quyền của ông Cao Minh H trình bày tại phiên tòa:

Cuối tháng 12/2010, vợ chồng ông N2 có hỏi ông H vay số tiền 250.000.000 đồng. Ông H và vợ chồng ông N2 thỏa thuận, dùng Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số X 293903 cấp ngày 28/4/2004 có diện tích đất 44,4m2, thửa đất số 44, tờ bản đồ số 54 thị trấn L và căn nhà vợ chồng ông N2 đang ở để thế chấp cho ông H dưới hình thức là ký kết Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nhằm đảm bảo nghĩa vụ thanh toán nợ của vợ chồng ông N2. Ông H và vợ chồng ông N2 thỏa thuận lãi suất là 5%/tháng, thời hạn vay là 05 tháng, kể từ ngày ký Giấy thỏa thuận ghi ngày 02/01/2011 vợ chồng ông N2 có trách nhiệm trả cho ông H số tiền 250.000.000 đồng, nhưng ông H cũng xác định chữ ký và chữ ghi họ, tên Cao Minh H trong Giấy thỏa thuận ghi ngày 02/01/2011 đúng là chữ ký, chữ viết của ông; Hết thời hạn 05 tháng, vợ chồng ông N2 vẫn không trả cho ông số tiền trên. Giấy thỏa thuận ngày 02/01/2011 là do ông H tự viết, không có chữ ký của ông N2, bà H2.

Việc ông H cho vợ chồng ông N2 vay 250.000.000 đồng và thỏa thuận lãi suất 5%/tháng, như trên chỉ là thỏa thuận miệng giữa ông H và vợ chồng ông N2, không có lập giấy vay mượn tiền. Vợ chồng ông N2 là người trực tiếp nhận số tiền vay 250.000.000 đồng. Vợ chồng ông N2 không thừa nhận có vay số tiền trên của ông H, ông H không có giấy tờ, tài liệu, chứng cứ chứng minh nên không cung cấp được cho Tòa án.

Và ngày 23/12/2012, ông H có nhận của bà Vũ Thị H số tiền 40.000.000 đồng do vợ chồng ông N2 nhờ ông N trả dùm, trả bớt số nợ 250.000.000 đồng trên, nhưng ông H không có tài liệu, giấy tờ, chứng cứ chứng minh số tiền 40.000.000 đồng trên là do bà H trả dùm vợ chồng ông N2.

Việc ký kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với vợ chồng ông N2 đối với thửa đất số 44 trên nhằm mục đích đảm bảo việc vợ chồng ông N2 trả cho ông H hết số nợ 250.000.000 đồng, ngoài ra không có mục đích gì khác. Ông H xác định không có giao dịch chuyển nhượng thửa đất số 44 trên, giữa ông và vợ chồng ông N2 nên không có việc ông cho vợ chồng ông N2 lưu cư trong thời hạn 06 tháng để tìm nơi ở khác.

Đối với việc ông H sang tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất qua tên ông H, do ông H cho ông B2 mượn Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông N2 để thế chấp vay tiền, nhưng sau đó ông B2 làm thủ tục chuyển nhượng cho ông H đứng tên, ông H không biết, nhưng ông xác định chữ ký trong hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, được ký kết giữa ông và vợ chồng ông T là chữ ký của ông, ông tự nguyện ký kết hợp đồng Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên. Do ông H tin tưởng ông B2 nên khi ông B2 đưa hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất để ông H ký, ông H nghĩ là hợp đồng ủy quyền cho ông B2 đi thế chấp vay tiền nên ông ký. Ông xác định ông không có chuyển nhượng thửa đất 44 trên cho vợ chồng ông T.

Ông đề nghị, nguyên đơn trả nhà và đất cho bị đơn, nguyên đơn và ông T tự giải quyết với nhau.

Trong vụ án này, ông H có yêu cầu độc lập, yêu cầu vợ chồng ông N2 trả cho ông H số tiền 210.000.000 đồng, không yêu cầu lãi suất.

Mặc dù, ông N, bà H thừa nhận có vay của ông H số tiền 250.000.000 đồng và đã trả 40.000.000 đồng nợ gốc, nhưng ông H vẫn xác định vợ chồng ông N không có nợ ông H số tiền 210.000.000 đồng, ông H không có yêu cầu đối với ông N, bà H.

Đối với yêu cầu phản tố của bị đơn, ông H không có ý kiến, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật.

* Ông Phạm Văn N là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, đồng thời là người đại diện theo ủy quyền của bà Vũ Thị H trình bày:

Ông và bà H xác định lời khai của ông H không đúng. Vợ chồng ông N2 không có vay của ông H số tiền 250.000.000 đồng mà số tiền 250.000.000 đồng trên là do vợ chồng ông vay của ông H, không có giấy tờ vay tiền, chỉ thỏa thuận bằng miệng.

Ông và bà H xác định không có giao dịch chuyển nhượng thửa đất số 44, tờ bản đồ số 54 thị trấn L. Việc ký kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng thửa đất số 44 trên giữa vợ chồng ông N2 và ông Cao Minh H, nhằm mục đích đảm bảo việc vợ chồng ông trả cho ông H hết số nợ 250.000.000 đồng. Số tiền 40.000.000 đồng là do vợ chồng ông trả bớt cho ông H số nợ gốc, vợ chồng ông N2 không có lần nào nhờ vợ chồng ông trả tiền dùm cho ông H.

Ông và bà H không đồng ý đối với yêu cầu độc lập của ông H. Vì số nợ 250.000.000 đồng là do vợ chồng ông trực tiếp vay của ông H, không phải vợ chồng ông N2.

Ông và bà H không đồng ý đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, nhưng vợ chồng ông đồng ý đối với yêu cầu phản tố của bị đơn. Vì Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 44, tờ bản đồ số 54 thị trấn L, huyện L, tỉnh Đồng Nai được ký kết giữa vợ chồng ông N2 và ông Cao Minh H do Phòng Công chứng số 4 chứng thực ngày 31/12/2010 nhằm mục đích đảm bảo việc thanh toán số nợ 250.000.000 đồng mà vợ chồng ông vay của ông H.

* Ông Nguyễn Quốc T, bà Dương Thị N trình bày (tại hồ sơ):

Vào năm 2012, ông B2 có vay của vợ chồng ông 150.000.000 đồng, có lãi suất nhưng ông không nhớ cụ thể là bao nhiêu. Ông B2 là người trực tiếp nhận số tiền vay. Ông H biết ông B2 vay số tiền trên của ông. Vì ông Hầu Tắc B và ông Cao Minh H có quan hệ chú – cháu nên ông H và ông B2 có gặp vợ chồng ông hỏi cho ông B2 vay tiền, ông H đồng ý giao Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 44 cho ông để thế chấp, đồng thời ký Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho vợ chồng ông nhằm đảm bảo việc ông B2 trả nợ cho vợ chồng ông, nhưng sau đó, ông B2 vẫn không trả tiền cho vợ chồng ông nên ông đã nhiều lần gặp ông H nói về việc ông B2 không trả tiền cho ông, vợ chồng ông sẽ sang tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên, nhưng ông H vẫn không có ý kiến gì, ông H chỉ nói chờ ông B2 về giải quyết.

Sau khi ông H giao Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 44 trên cho vợ chồng ông để thế chấp cho ông B2 vay tiền, ông H có dẫn vợ chồng ông đến nhà vợ chồng ông N2 để nói về việc ông H thế chấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên cho vợ chồng ông. Vợ chồng ông N2 chỉ nói vợ chồng ông không biết gì, chỉ biết cho ông N, bà H mượn Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thế chấp cho ông H vay tiền của ông H. Tại thời điểm đó, ông H không có ý kiến gì.

Khi ông sang tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa đất số 44 cho vợ chồng ông đứng tên, ông không có thông báo cho ông N2, bà H2 biết.

Trước khi vợ chồng ông chuyển nhượng thửa đất số 44 cho Bà L2, ông có nói Bà L2 biết thửa đất số 44 là do ông N, bà H mượn của ông N2, bà H2 thế chấp cho ông H để ông N, bà H vay tiền của ông H. Sau đó, ông H thế chấp lại cho vợ chồng ông để cho ông B2 vay tiền, do ông B2 không trả tiền cho vợ chồng ông nên vợ chồng ông sang tên và chuyển nhượng lại cho Bà L2, Bà L2 vẫn đồng ý nhận chuyển nhượng. Khi chuyển nhượng thửa đất số 44 cho Bà L2, vợ chồng ông không có bán nhà của vợ chồng ông N2.

Khi chuyển nhượng thửa đất số 44 cho Bà L2, vợ chồng ông có dẫn Bà L2 đến nhà vợ chồng ông N2 xem đất, nhưng không có ông N2, bà H2 ở nhà, nhưng ông có nói rõ với Bà L2 hiện vợ chồng ông N2 đang ở nhờ căn nhà và đất trên, nhưng Bà L2 vẫn đồng ý nhận chuyển nhượng.

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Hầu Tắc B trình bày (tại hồ sơ):

Do công việc làm ăn không thuận lợi, ông có mượn tiền ông Cao Minh H, nhưng ông H nói không có tiền mà có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên chú để vay tiền. Ông đã gặp ông Nguyễn Quốc T vay số tiền 150.000.000 đồng và thế chấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên. Sau đó, ông T mượn của Bà L2 250.000.000 đồng và sang tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên cho Bà L2. Trước khi cho ông T vay tiền, Bà L2 hiểu rõ việc ông T cho ông mượn tiền, nhưng Bà L2 vẫn nhận chuyển nhượng.

Ông đề nghị được trả ông T số tiền 150.000.000 đồng để lấy lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên trả cho ông H.

* Bà Nguyễn Thị Hồng V là người đại diện theo pháp luật của Phòng Công chứng số 4 – Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày (tại hồ sơ):

Ngày 31/12/2010, bà Nguyễn Thị H, ông Vũ Đức N yêu cầu Phòng Công chứng số 4 công chứng Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với thửa 44, tờ bản đồ số 54 thị trấn L, huyện L, tỉnh Đồng Nai. Các bên tham gia ký hợp đồng, đã tự nguyện thỏa thuận giao kết hợp đồng và cam đoan chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung hợp đồng; Tại thời điểm công chứng, các bên giao kết hợp đồng có năng lực hành vi dân sự theo quy định của pháp luật, cuối bản hợp đồng các bên đều có ký tên và điểm chỉ trước mặt của Công chứng viên. Việc công chứng hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên đã đảm bảo đúng trình tự, thủ tục theo quy định của Luật Công chứng. Đối với yêu cầu phản tố của bị đơn, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Phòng Công chứng số 4 xin vắng mặt tại các buổi làm việc, xét xử của Tòa án.

* Ông Nguyễn Văn T là người đại diện theo pháp luật của Văn phòng Công chứng S – Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày (tại hồ sơ):

Theo yêu cầu của ông Cao Minh H, ông Nguyễn Quốc T và bà Nguyễn Thị Mỹ L, ngày 18/4/2012 tại Văn phòng Công chứng S đã công chứng hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, số công chứng: 1557/2012, quyển số 04/2012 TP/SCC/HĐGD, giữa bên chuyển nhượng là ông Cao Minh H và bên nhận chuyển nhượng là ông Nguyễn Quốc T; Và ngày 07/01/2014, Văn phòng công chứng S đã công chứng hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, số công chứng: 0111/2014, quyển số 01/2014 TP/SCC/HĐGD, giữa bên chuyển nhượng là ông Nguyễn Quốc T, bà Dương Thị N và bên nhận chuyển nhượng là bà Nguyễn Thị Mỹ L đối với quyền sử dụng đất thửa 44, tờ bản đồ số 54 thị trấn L, huyện L.

Đối chiếu các hồ sơ lưu trữ, Văn phòng công chứng S xác nhận các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên được thực hiện đúng trình tự, thủ tục luật quy định về công chứng. Tại thời điểm công chứng, thửa đất nêu trên đủ điều kiện chuyển nhượng theo quy định của pháp luật.

Văn phòng Công chứng S xin vắng mặt tại các buổi làm việc, các phiên họp, xét xử của Tòa án.

* Người làm chứng ông Đỗ Văn L trình bày (tại hồ sơ):

Ông là tài xế, và là người giới thiệu cho ông N, bà H vay 250.000.000 đồng của ông Cao Minh H vào năm 2010. Vào năm 2010, ông có chở ông N, ông N2, bà H2 đến Phòng Công chứng số 4 để ông N nhận tiền vay từ ông H; Ông N2, bà H2 ký kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thửa 44, tờ bản đồ số 54 thị trấn L cho ông Cao Minh H, nhằm đảm bảo cho việc ông N trả số nợ 250.000.000 đồng cho ông H. Ông là người chứng kiến việc ông H giao ông N số tiền 250.000.000 đồng, ông H không có giao khoản tiền nào cho vợ chồng ông N2 như ông H khai.

* Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát:

Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về việc xét xử sơ thẩm vụ án; Nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng của họ theo quy định tại Điều 70, 71, 72, 73, 86 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

Về nội dung v án:

– Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

Từ khi ông N2, bà H2 ký hợp đồng chuyển nhượng cho ông H đến khi ông H chuyển nhượng đất lại cho ông T, sau đó ông T chuyển nhượng lại cho Bà L2 vào năm 2014, thì ông N2, bà H2 vẫn là người quản lý nhà và thửa đất số 44, tờ bản đồ số 54 thị trấn L.

Căn cứ vào nội dung các Hợp đồng chuyển nhượng đã thỏa thuận giữa các bên đương sự, thể hiện nội dung chỉ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mặc dù trên đất có 01 căn nhà cấp 4, căn nhà là tài sản gắn liền trên thửa đất số 44, nhưng không được các bên thỏa thuận chuyển nhượng trong 03 hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.

Việc Bà L2 ký kết hợp đồng nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất với vợ chồng ông T trong khi vợ chồng ông N2 đang sinh sống tại nhà, đất nêu trên. Khi vợ chồng ông T ký hợp đồng chuyển nhượng với Bà L2 thì hai bên chỉ chuyển nhượng đất không chuyển nhượng nhà, cả Bà L2 ông T đều biết có việc ông N2, bà H2 hiện tại đang sống trên đất. Kể cả ông H là người chuyển nhượng đất trước đó cho vợ chồng ông T, vợ chồng ông T, Bà L2 đều khai rằng sau khi nhận chuyển nhượng đất thì cho vợ chồng ông N2, bà H2 mượn sử dụng nhưng không có chứng cứ gì chứng minh cho lời trình bày của mình, vợ chồng ông N2 – bà H2 không thừa nhận việc mượn nhà nên yêu cầu khởi kiện của Bà L2 về việc buộc ông N2, bà H2 trả lại tài sản nhà, đất cho bà sử dụng là không có căn cứ chấp nhận.

– Đối với yêu cầu phản tố của bị đơn ông N2:

Lời khai của ông Cao Minh H đã xác định: Vào cuối tháng 12/2010, ông có cho ông N2, bà H2 vay 250 triệu đồng, thỏa thuận dùng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số X293903 của ông N2, bà H2 thế chấp cho ông, dưới hình thức là ký kết hợp đồng chuyển nhượng đất để đảm bảo vợ chồng ông N2 trả cho ông số nợ 250 triệu đồng, không có giao dịch chuyển nhượng đất với vợ chồng ông N2.

Căn cứ vào lời khai của ông N2, bà H2, ông H, ông N có cơ sở xác định Hợp đồng chuyển nhượng số 234/2010 ngày 31/12/2010 ký tại Phòng công chứng số 4, tỉnh Đồng Nai giữa vợ chồng ông N2, bà H2 với ông H là hợp đồng giả tạo, nhằm mục đích che giấu giao dịch vay nợ. Thực tế giữa vợ chồng ông N2 và ông H không có giao nhận tài sản là nhà và đất cho nhau. Từ đó, có căn cứ xác định Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 234/2010 giữa ông N2, bà H2 và ông H ngày 31/12/2010 vô hiệu theo quy định tại Điều 129 của Bộ luật Dân sự năm 2005.

Do Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 234/2010 giữa ông N2, bà H2 và ông H ngày 31/12/2010 vô hiệu. Ông H chưa đảm bảo về mặt chủ thể hợp pháp là chủ sử dụng diện tích đất 44,4m2, thửa đất 44, tờ bản đồ số 54 thị trấn L nên việc ông H tiếp tục chuyển nhượng đất nêu trên cho ông T, bà N2 vô hiệu theo.

Mặt khác theo lời khai của ông T, việc ông và ông H ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số công chứng số 1557/2012 ngày 18/4/2012 tại Phòng công chứng S là để đảm bảo khoản vay của ông Hầu Tắc B vay 150.000.000 đồng của vợ chồng ông T, do không có tiền thanh toán nên ông B2 đã nhờ ông H chuyển nhượng nhà đất mà ông H đã nhận chuyển nhượng của ông N2, bà H2 để cấn trừ nợ. Do vậy, có căn cứ xác định hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số công chứng số 1557/2012 ngày 18/4/2012 tại Phòng công chứng S vô hiệu do giả tạo theo quy định tại Điều 129 Bộ luật Dân sự năm 2005.

Do hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ký kết giữa vợ chồng ông T, bà N2 với ông H vô hiệu nên kéo theo hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất công chứng số 0111/2014 ngày 07/01/2014 tại Văn phòng công chứng S giữa vợ chồng ông T với Bà L2 vô hiệu theo.

Do đó, có căn cứ chấp nhận toàn bộ yêu cầu phản tố của bị đơn ông N2, bà H2 về việc tuyên hủy 03 Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên.

– Đối với yêu cầu khởi kiện độc lập của ông Cao Minh H:

Ông H không cung cấp được chứng cứ chứng minh việc vay và giao nhận số tiền 250 triệu đồng với ông N2, bà H2.

Đồng thời người làm chứng ông Đỗ Văn L xác định, ông là người giới thiệu cho ông N, bà H vay số tiền 250.000.000 đồng của ông H vào năm 2010, ông Luân có chở ông N, vợ chồng ông N2 đến Phòng Công chứng số 4 để ông N nhận tiền vay từ ông H, vợ chồng ông N2 ký hợp đồng chuyển nhượng thửa đất số 44, tờ bản đồ số 54 thị trấn L cho ông H, nhằm đảm bảo cho việc vợ chồng ông N trả số nợ 250.000.000 đồng cho ông H. Ông Luân là người chứng kiến việc ông H giao ông N số tiền 250.000.000 đồng.

Do đó, yêu cầu độc lập của ông H không có cơ sở chấp nhận.

Từ những phân tích trên căn cứ theo quy định tại Điều 129 của Bộ luật Dân sự năm 2005; Điều 688 Bộ luật dân sự năm 2015 đề nghị:

– Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Bà L2 yêu cầu ông N2 và bà H2 trả lại nhà và quyền sử dụng đất diện tích 44,4m2 (bên dưới căn nhà), thuộc thửa đất số 44, tờ bản đồ số 54 thị trấn L, huyện L, tỉnh Đồng Nai.

– Chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Vũ Đức N. Tuyên bố 03 hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu, gồm: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Vũ Đức N, bà Nguyễn Thị H với ông Cao Minh H, Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Cao Minh H với ông Nguyễn Quốc T, Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn Quốc T, bà Dương Thị N với bà Nguyễn Thị Mỹ L.

– Không chấp nhận yêu cầu độc lập của ông Cao Minh H yêu cầu ông Vũ Đức N, bà Nguyễn Thị H trả cho ông Cao Minh H số tiền 210.000.000 đồng, không yêu cầu lãi suất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

– Về quan hệ pháp luật: Căn cứ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, nguyên đơn yêu cầu ông N2, bà H2 trả lại nhà và quyền sử dụng đất diện tích 44,4m2 (bên dưới căn nhà), thuộc thửa đất số 44, tờ bản đồ số 54 thị trấn L, huyện L, tỉnh Đồng Nai; yêu cầu phản tố của bị đơn, yêu cầu tuyên bố 03 hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Vũ Đức N, bà Nguyễn Thị H với ông Cao Minh H, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Cao Minh H với ông Nguyễn Quốc T, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn Quốc T, bà Dương Thị N với bà Nguyễn Thị Mỹ L; yêu cầu độc lập của ông Cao Minh H yêu cầu vợ chồng ông N2 trả số tiền 210.000.000 đồng. Hội đồng xét xử sơ thẩm có cơ sở xác định quan hệ pháp luật là “Kiện đòi tài sản, tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu, tranh chấp hợp đồng vay tài sản” được quy định tại Điều 26 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

– Về thẩm quyền giải quyết: Do bị đơn có địa chỉ thường trú tại thị trấn L, huyện L, diện tích đất tranh chấp tọa lạc tại thị trấn L, huyện L nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Đồng Nai theo quy định tại Điều 39 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

Đối với Phòng Công chứng số 4, Văn phòng Công chứng S, ông Nguyễn Quốc T, bà Dương Thị N, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng, Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa, nhưng vắng mặt tại phiên tòa có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự xét xử vắng mặt Phòng Công chứng số 4, Văn phòng Công chứng S, ông Nguyễn Quốc T, bà Dương Thị N; Đối với ông Hầu Tắc B đã có quyết định thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú của Tòa án thành phố L nên căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng Dân sự xét xử vắng mặt ông B2.

Đối với người làm chứng ông Đỗ Văn L vắng mặt, nhưng ông Luân đã có lời khai trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 229 của Bộ luật Tố tụng Dân sự xét xử vắng mặt ông Luân tại phiên tòa.

* Bản án dân sự sơ thẩm số 34/2015/DS–ST ngày 06/7/2015 của Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Đồng Nai quyết định:

1/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Mỹ L về việc “Kiện đòi tài sản” đối với ông Vũ Đức N, bà Nguyễn Thị H.

Buộc ông Vũ Đức N, bà Nguyễn Thị H phải di dời đi nơi khác và trả lại cho bà Nguyễn Thị Mỹ L quyền sử dụng diện tích 44,4 m2 đất thuộc thửa số 44, tờ bản đồ số 54, ở thị trấn L, huyện L, tỉnh Đồng Nai, được giới hạn bởi các mốc 3–4–5–6–3 theo bản đồ hiện trạng thửa đất số 4645/2014 ngày 16/12/2014 của Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Đồng Nai, Chi nhánh huyện L.

Buộc ông N2, bà H2 trả lại cho Bà L2 căn nhà diện tích 51m2 có trên đất được mô tả trong Chứng thư thẩm định giá số 245/TĐG–CT ngày 03/3/2015 của Công ty cổ phần thẩm định giá tỉnh Đồng Nai.

2/ Ngoài ra, Bản án còn quyết định về chi phí đo đạc, định giá, án phí, thông báo quyền kháng cáo, quyền và nghĩa vụ của các bên đương sự trong giai đoạn thi hành án.

– Ngày 14/7/2015, ông Vũ Đức N có đơn kháng cáo toàn bộ Bản án sơ thẩm.

– Ngày 20/7/2017, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện L có Quyết định kháng nghị số 217/2015/QĐ–KN, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm hủy Bản án sơ thẩm, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm xét xử lại.

* Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 119/2017/DS–PT ngày 29/8/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai quyết định:

Không chấp nhận đơn kháng cáo của ông Vũ Đức N.

Không chấp nhận Quyết định kháng nghị số 217/2015/QĐ–KN ngày 20/7/2015 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện L, tỉnh Đồng Nai.

Sửa một phần Bản án dân sự sơ thẩm số 34/2015/DS–ST ngày 06/7/2015 của Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Đồng Nai.

1/ Chấp nhận đơn khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Mỹ L đối với bị đơn ông Vũ Đức N; những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị H, ông Cao Minh H, ông Nguyễn Quốc T, bà Dương Thị N về việc “Kiện đòi lại tài sản”.

Buộc ông Vũ Đức N và bà Nguyễn Thị H phải có trách nhiệm giao trả lại cho bà Nguyễn Thị Mỹ L quyền sử dụng diện tích đất 44,4m2 và quyền sở hữu căn nhà cấp 4 xây dựng trên đất diện tích 51m2 thuộc thửa số 44, tờ bản đồ số 54 (trong đó có 6,6m2 đất chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng đã cất nhà) ở thị trấn L, huyện L, tỉnh Đồng Nai, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BC 637879 do Ủy ban nhân dân huyện L cấp cho Bà L2 ngày 17/01/2014 (Áp dụng theo bản vẽ đo đạc số 4645/2014 ngày 16/12/2014 đã xác định các mốc 3, 4, 5, 6, 3 hiện trạng thửa đất của Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Đồng Nai, Chi nhánh huyện L để thực hiện).

Ông N2, bà H2 được phép lưu cư lại trong căn nhà thời hạn 06 (sáu) tháng để tìm nơi ở khác.

Công nhận sự tự nguyện của bà Nguyễn Thị Mỹ L hỗ trợ cho ông Vũ Đức N, bà Nguyễn Thị H số tiền 40.000.000 đồng.

2/ Ngoài ra, bản án còn quyết định về án phí, chi phí đo đạc thẩm định, lệ phí giám định, quyền và nghĩa vụ của các bên đương sự trong giai đoạn thi hành án.

– Ngày 25/9/2017, ông Vũ Đức N có đơn đề nghị giám đốc thẩm đối với Bản án dân sự phúc thẩm nêu trên.

* Tại Quyết định giám đốc thẩm số 362/2018/DS–GĐT ngày 22/11/2018 của Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh, quyết định:

1/ Chấp nhận kháng nghị số 79/KNGĐT–VKS–DS ngày 04/5/2018 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh.

2/ Hủy toàn bộ bản án dân sự phúc thẩm số 119/2017/DS–PT ngày 29/8/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai và hủy toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm số 34/2015/DS–ST ngày 06/7/2015 của Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Đồng Nai về vụ án “Kiện đòi tài sản” giữa nguyên đơn bà Nguyễn Thị Mỹ L với bị đơn ông Vũ Đức N; Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.

Quyết định giám đốc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày ra quyết định.

 [2] Về nội dung vụ án:

Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, yêu cầu phản tố của bị đơn, yêu cầu độc lập của ông Cao Minh H. Hội đồng xét xử xét thấy:

* Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

Vợ chồng ông N2, bà H2, ông H, ông N, ông Luân đều xác định hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ký kết giữa vợ chồng ông N2 và ông H vào năm 2010 là hợp đồng giả cách, nhằm đảm bảo cho vợ chồng ông N thanh toán số tiền 250.000.000 đồng cho ông H, không có việc vợ chồng ông N2 chuyển nhượng thửa đất 44, tờ bản đồ số 54 thị trấn L cho ông H;

Sau đó, ông H làm thủ tục sang tên cho ông H đứng tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của thửa đất số 44 trên. Ông H và ông B2 có gặp vợ chồng ông T hỏi cho ông B2 vay số tiền 150.000.000 đồng, ông H đồng ý giao Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa đất 44 cho ông T để thế chấp, đồng thời ký Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho vợ chồng ông T, nhằm đảm bảo việc ông B2 trả nợ cho vợ chồng ông T, nhưng sau đó, ông B2 vẫn không trả tiền cho vợ chồng ông T, ông T gặp ông H nhiều lần nói việc ông B2 không trả tiền cho ông, vợ chồng ông sẽ sang tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên, ông H vẫn không có ý kiến;

Trước khi vợ chồng ông T chuyển nhượng thửa đất số 44 cho Bà L2, ông T có nói Bà L2 biết thửa đất số 44 là do ông N, bà H mượn Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của vợ chồng ông N2 để thế chấp cho ông H vay tiền. Sau đó, ông H thế chấp lại cho vợ chồng ông T cho ông B2 vay tiền, do ông B2 không trả tiền cho vợ chồng Tuyến nên vợ chồng ông T sang tên và chuyển nhượng lại cho Bà L2, Bà L2 vẫn đồng ý nhận chuyển nhượng. Khi chuyển nhượng thửa đất số 44 cho Bà L2, vợ chồng ông T không có bán nhà của vợ chồng ông N2;

Ngoài ra, ông H cũng xác định chữ ký và chữ ghi họ, tên Cao Minh H trong Giấy thỏa thuận ghi ngày 02/01/2011 đúng là chữ ký, chữ viết của ông H, là do ông H tự viết, không có chữ ký của ông N2, bà H2; Đồng thời ông Đỗ Văn L cũng đã xác định ông là người giới thiệu cho ông N, bà H vay 250.000.000 đồng của ông Cao Minh H vào năm 2010. Vào năm 2010, ông có chở ông N, ông N2, bà H2 đến Phòng Công chứng số 4 để ông N nhận tiền vay từ ông H; Ông N2, bà H2 ký kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thửa 44, tờ bản đồ số 54 thị trấn L cho ông Cao Minh H, nhằm đảm bảo cho việc ông N trả số nợ 250.000.000 đồng cho ông H. Ông Luân là người chứng kiến việc ông H giao ông N số tiền 250.000.000 đồng, ông H không có giao khoản tiền nào cho vợ chồng ông N2 như ông H khai.

Tại biên bản đối chất ngày 31/12/2021, Bà L2 thừa nhận: Trước khi vợ chồng ông T chuyển nhượng thửa đất số 44, tờ bản đồ số 54 thị trấn L cho bà, ông T có nói cho bà biết thửa đất số 44 trên là do ông N, bà H mượn của ông N2, bà H2 để thế chấp cho ông H để ông N, bà H vay tiền của ông H. Sau đó, ông H thế chấp lại cho vợ chồng ông T để cho ông B2 vay tiền của ông T, bà N2, do ông B2 không trả tiền cho vợ chồng ông T nên vợ chồng ông T sang tên chuyển nhượng lại cho bà, nhưng bà vẫn đồng ý nhận chuyển nhượng; Khi nhận chuyển nhượng diện tích đất 44,4m2, thửa đất số 44, tờ bản đồ số 54 thị trấn L, bà biết ông N2, bà H2 đang sinh sống tại nhà và đất mà bà nhận chuyển nhượng của vợ chồng ông T, bà xác định bà nhận chuyển nhượng thửa đất số 44, tờ bản đồ số 54 thị trấn L, không nhận mua nhà bên trên thửa đất số 44 trên. Vợ chồng ông T chỉ chuyển nhượng thửa đất số 44 trên cho bà, không có bán nhà trên thửa đất số 44.

Lời khai của ông N, bà H, ông H cũng đã xác định, không có giao dịch chuyển nhượng đất đối với thửa 44 trên giữa ông H và vợ chồng của ông N2, ông H nhận thế chấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của vợ chồng ông N2 nhằm đảm bảo cho việc thanh toán nợ.

Từ những cơ sở trên, Hội đồng xét xử có chứng cứ xác định, bản chất của giao dịch ký kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng thửa đất số 44, tờ bản đồ 54 thị trấn L giữa vợ chồng ông N2 và ông Cao Minh H là giao dịch vay mượn tiền giữa vợ chồng ông N và ông Cao Minh H, không có giao dịch chuyển nhượng đất. Do đó, Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Vũ Đức N, bà Nguyễn Thị H với ông Cao Minh H là vô hiệu nên không chấp nhận yêu cầu của bà Nguyễn Thị Mỹ L.

* Đối với yêu cầu phản tố của bị đơn:

Như đã phân tích ở trên, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Vũ Đức N, bà Nguyễn Thị H với ông Cao Minh H là hợp đồng giả tạo, nhằm che giấu một giao dịch dân sự khác; Vợ chồng ông N2 không có giao dịch, chuyển nhượng thửa 44 cho ông H;

Ông H tự làm thủ sang tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 44 cho ông đứng tên, không hỏi ý kiến của vợ chồng ông N2, vợ chồng ông N2 không biết việc ông H sang tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 44 cho ông H đứng tên;

Bà L2 biết việc vợ chồng ông N2 chỉ cho vợ chồng ông N mượn Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để thế chấp cho ông H vay tiền, vợ chồng ông N2 không chuyển nhượng đất cho ông H, khi nhận chuyển nhượng thửa 44, Bà L2 biết vợ chồng ông N2 vẫn đang sinh sống tại thửa 44, nhưng Bà L2 vẫn đồng ý nhận chuyển nhượng.

Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Vũ Đức N, bà Nguyễn Thị H với ông Cao Minh H được xác lập một cách giả tạo, nhằm che giấu một giao dịch dân sự khác nên căn cứ Điều 129 của Bộ luật Dân sự năm 2005, cần tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Vũ Đức N, bà Nguyễn Thị H với ông Cao Minh H là vô hiệu;

Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Vũ Đức N, bà Nguyễn Thị H với ông Cao Minh H vô hiệu, dẫn đến hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Cao Minh H với ông Nguyễn Quốc T, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn Quốc T, bà Dương Thị N với bà Nguyễn Thị Mỹ L cũng vô hiệu.

Các đương sự đều không yêu cầu Tòa án giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu, mặc dù đã được Tòa án giải thích rõ về hậu quả pháp lý của việc tuyên bố hợp đồng vô hiệu theo quy định tại Điều 131 của Bộ luật Dân sự đối với 03 hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét về hậu quả pháp lý của việc tuyên bố hợp đồng vô hiệu đối với 03 hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên.

* Đối với yêu cầu độc lập của ông Cao Minh H:

Vợ chồng ông N2 không thừa nhận có vay của ông H số tiền 250.000.000 đồng, ông H không có chứng cứ để chứng minh;

Vợ chồng ông N xác định, vợ chồng ông chỉ mượn Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của vợ chồng ông N2 để thế chấp cho ông H vay số tiền 250.000.000 đồng, vợ chồng ông N2 không có vay số tiền trên của ông H;

Đồng thời người làm chứng ông Đỗ Văn L xác định, ông là người giới thiệu cho ông N, bà H vay số tiền 250.000.000 đồng của ông H vào năm 2010, ông Luân có chở ông N, vợ chồng ông N2 đến Phòng Công chứng số 4 để ông N nhận tiền vay từ ông H, vợ chồng ông N2 ký hợp đồng chuyển nhượng thửa đất số 44, tờ bản đồ số 54 thị trấn L cho ông H, nhằm đảm bảo cho việc vợ chồng ông N trả số nợ 250.000.000 đồng cho ông H. Ông Luân là người chứng kiến việc ông H giao ông N số tiền 250.000.000 đồng.

Từ những cơ sở trên, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ không chấp nhận yêu cầu độc lập của ông H đối với vợ chồng ông N2.

[3] Về chi phí tố tụng:

Chi phí thu thập tài liệu chứng cứ theo yêu cầu của bị đơn: 50.000 đồng. Quá trình giải quyết, bị đơn yêu cầu Tòa án thu thập tài liệu chứng cứ nên bị đơn phải chịu 50.000 đồng tiền thu thập tài liệu chứng cứ (bị đơn đã nộp xong).

Chi phí đo đạc, xem xét thẩm định tại chỗ, thẩm định giá tài sản (sơ thẩm lần 1): 4.096.921 đồng;

Chi phí thu thập tài liệu chứng cứ, đo đạc, xem xét thẩm định tại chỗ, thẩm định giá, định giá tài sản (sơ thẩm lần 2): 20.654.733 đồng.

Tổng cộng: 24.751.654 đồng.

Do yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Mỹ L không được chấp nhận. Căn cứ khoản 1 Điều 157; khoản 2 Điều 158; Khoản 1 Điều 165; khoản 2 Điều 166 của Bộ luật Tố tụng Dân sự, buộc Bà L2 phải chịu chi phí thu thập tài liệu chứng cứ, đo đạc, xem xét thẩm định tại chỗ, thẩm định giá, định giá tài sản là 24.751.654 đồng (Bà L2 đã nộp xong).

Xét ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa, Hội đồng xét xử xét thấy hoàn toàn có căn cứ, đúng quy định của pháp luật và phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

[4] Về án phí:

Do yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Mỹ L không được chấp nhận nên Bà L2 phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm và do 03 yêu cầu phản tố của ông Vũ Đức N được chấp nhận nên bà Nguyễn Thị Mỹ L phải chịu 900.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm. Tổng cộng, Bà L2 phải chịu 1.200.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm, nhưng Bà L2 được trừ vào 200.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 007927 ngày 11/7/2014 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện L; Bà L2 còn phải nộp thêm 1.000.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Do yêu cầu độc lập của ông H không được chấp nhận, ông H chịu 10.500.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào 5.250.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0005217 ngày 29/4/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện L; Ông H còn phải nộp thêm 5.250.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Trả lại ông Vũ Đức N, bà Nguyễn Thị H 200.000 đồng tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 007141 ngày 31/7/2015 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện L.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 26; Điều 35; Điều 39; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228; khoản 2 Điều 229; khoản 1 Điều 147; Điều 266, 267, 271, 273; khoản 1 Điều 157; khoản 2 Điều 158; Khoản 1 Điều 165; khoản 2 Điều 166 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; Căn cứ Điều 129 của Bộ luật Dân sự năm 2005; Điều 688 của Bộ luật Dân sự năm 2015; Căn cứ khoản 1 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1/ Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Mỹ L yêu cầu ông N2 và bà H2 trả lại nhà và quyền sử dụng đất diện tích 44,4m2 (bên dưới căn nhà), thuộc thửa đất số 44, tờ bản đồ số 54 thị trấn L, huyện L, tỉnh Đồng Nai.

2/ Chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Vũ Đức N. Tuyên bố 03 hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu, gồm: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Vũ Đức N, bà Nguyễn Thị H với ông Cao Minh H, công chứng số 234/2010, quyển số 03/2010 TP/CC – SCC/HĐCN ngày 31/12/2010 tại Văn phòng Công chứng số 4, tỉnh Đồng Nai; Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Cao Minh H với ông Nguyễn Quốc T, công chứng số 1557/2012, quyển số 04/2012 TP/CC – SCC/HĐCN ngày 18/4/2012 tại Văn phòng Công chứng S, tỉnh Đồng Nai; Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn Quốc T, bà Dương Thị N với bà Nguyễn Thị Mỹ L, công chứng số 0111/2014, quyển số 04/2012 TP/CC – SCC/HĐCN ngày 07/01/2014 tại Văn phòng Công chứng S, tỉnh Đồng Nai.

Kiến nghị cơ quan có thẩm quyền thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BC 637879 ngày 29/8/2012 cấp cho ông Nguyễn Quốc T, và ngày 17/01/2014 bà Nguyễn Thị Mỹ L được xác nhận nội dung biến động trang 4 của Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BC 637879 ngày 29/8/2012. Sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, các đương sự có nghĩa vụ liên hệ với cơ quan có thẩm quyền để làm thủ tục cấp lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của pháp luật.

3/ Không chấp nhận yêu cầu độc lập của ông Cao Minh H yêu cầu ông Vũ Đức N, bà Nguyễn Thị H trả cho ông Cao Minh H số tiền 210.000.000 đồng, không yêu cầu lãi suất.

4/ Về chi phí tố tụng:

Bà Nguyễn Thị Mỹ L phải chịu chi phí thu thập tài liệu chứng cứ, đo đạc, xem xét thẩm định tại chỗ, thẩm định giá, định giá tài sản 24.751.654 đồng (Bà L2 đã nộp xong).

Ông Vũ Đức N phải chịu chi phí thu thập tài liệu chứng cứ 50.000 đồng (ông N2 đã nộp xong).

4/ Về án phí:

Bà Nguyễn Thị Mỹ L phải chịu 1.200.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm, nhưng Bà L2 được trừ vào 200.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 007927 ngày 11/7/2014 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện L; Bà L2 còn phải nộp thêm 1.000.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Ông Cao Minh H chịu 10.500.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào 5.250.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0005217 ngày 29/4/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện L; Ông H còn phải nộp thêm 5.250.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Trả lại ông Vũ Đức N, bà Nguyễn Thị H 200.000 đồng tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 007141 ngày 31/7/2015 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện L.

5/ Nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị H, ông Phạm Văn N, bà Vũ Thị H, ông Cao Minh H được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Quốc T, bà Dương Thị N, ông Hầu Tắc B, Phòng Công chứng số 4, Văn phòng Công chứng S được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

294
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về kiện đòi tài sản, yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu, tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 67/2023/DS-ST

Số hiệu:67/2023/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Thành - Đồng Nai
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 23/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về