TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BN
BẢN ÁN 92/2023/DS-PT NGÀY 29/09/2023 VỀ KIỆN ĐÒI TÀI SẢN
Ngày 29 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh BN xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 145/2023/TLPT-DS ngày 09/8/2023 về “Kiện đòi tài sản”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số: 17/2023/DS-ST ngày 26/6/2023 của Tòa án nhân dân thành phố TS bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 143/2023/QĐ-PT, ngày 28/8/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh BN, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị N, S năm 1947.
Địa chỉ: Khu phố VT, phường HM, thành phố TS, tỉnh BN (có đơn xin xét xử vắng mặt).
- Bị đơn: Bà Trần Thị H, S năm 1964.
Địa chỉ: Khu phố KT, phường HM, thành phố TS, tỉnh BN (có mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Khắc S (tên thường gọi Tư Cụt), S năm 1942 (vắng mặt).
Địa chỉ: Khu phố VT, phường HM, thành phố TS, tỉnh BN.
- Người làm chứng:
1. Ông Nguyễn Văn Q, S năm 1963 (có mặt).
Địa chỉ: Khu phố KT, phường HM, thành phố TS, tỉnh BN.
2. Bà Chu Thị B, S năm 1953 (có mặt).
Địa chỉ: Thôn Đ, xã TG, huyện YP, tỉnh BN.
3. Ông Dương Văn C, S năm 1962 (có mặt).
Địa chỉ: Thôn HH, xã LH, huyện ĐA, thành phố HN.
4. Ông Đỗ Xuân L, S năm 1966 (vắng mặt).
Địa chỉ: Thôn GT, xã LH, huyện ĐA, thành phố HN.
Người kháng cáo: Bà Trần Thị H.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo bản án sơ thẩm và các tài liệu có trong hồ sơ thì vụ án có nội dung như sau:
Nguyên đơn bà Nguyễn Thị N và người đại diện theo ủy quyền của bà N trình bày: Bà N và bà H không có quan hệ huyết thống hoặc nuôi dưỡng gì, chỉ là quen biết nhau. Nhưng bà H vẫn gọi bà N bằng mẹ. Ngày 29/6/2013 (âm lịch) bà N cho bà H vay tiền. Bà H có biên nhận với bà N nội dung “Cầm của mẹ số tiền 41.400.000 đồng”. Bà N yêu cầu bà H phải trả lại số tiền trên và lãi suất từ ngày vay đến nay theo quy định của pháp luật. Chồng bà H là ông Nguyễn Văn Q không liên quan đến giao dịch giữa bà N và bà H. Bà N không yêu cầu ông Q có nghĩa vụ thanh toán số tiền trên.
Bị đơn bà Nguyễn Thị H trình bày: Bà H xác nhận không có quan hệ huyết thống hay nuôi dưỡng gì với bà N. Nhưng hai người chơi với nhau và bà H thường qua lại nhà bà N, ông S. Bà H gọi bà N là mẹ nuôi. Năm 2013, bà H nghe theo nhiều người tham gia bán hàng đa cấp với một Công ty (không nhớ rõ tên và địa chỉ cụ thể) ở HN. Bà H cùng nhiều người dân đều tham gia dưới hình thức nộp một khoản tiền vào công ty, nhận một số mặt hàng về dùng thử, bán và giới thiệu lại cho người khác tham gia. Nếu càng giới thiệu được nhiều người thì càng được công ty trả tiền hoa hồng cao. Người tham gia đã nộp tiền vào công ty thì cũng được trả lãi cao hơn lãi suất gửi tiết kiệm vào ngân hàng.
Bà N được vào bà H dẫn ra trụ sở của công ty bán hàng đa cấp. Bà N cũng đồng ý tham gia nhưng không mang tiền. Bà N đồng ý mua gói chơi với giá trị 41.400.000 đồng. Vì già không ra được HN nữa nên có nhờ bà H cầm tiền và nộp hộ. Bà N đã đăng ký gói chơi 41.400.000 đồng, nhưng chỉ có 17.000.000 đồng đưa cho bà H.
Bà H là trưởng nhóm, do hám lợi và nếu có nhiều người chơi thì bà H càng được hưởng hoa hồng cao và được nhiều ưu đãi khác nên bà H ứng ra số tiền 24.400.000 đồng để cho bà N vay cho đủ số tiền đóng vào mua hàng đa cấp (một gói). Bà H có viết trong sổ bà N nội dung: Ngày 29/6/2013 cầm của mẹ 41.400.000 đồng. Khi bà H đóng số tiền trên cho bà N, không được công ty giao cho bất cứ giấy tờ gì mà chỉ được phát một tờ ghi mã số. Sau này, bà H có đến Công ty một vài lần để đòi lại tiền, nhưng hiện nay Công ty này không còn hoạt động và không có trụ sở tại địa điểm cũ nữa. Bà H cùng mọi người khác cùng chơi bán hàng đa cấp biết là đã bị Công ty này lừa đảo để lấy tiền.
Bà H không chấp nhận trả bà N số tiền trên vì là tiền bà N chơi đa cấp đã mất. Bà H cũng bị mất nhiều tiền hơn thế. Bà H chỉ cầm tiền để nộp hộ bà N. Nay công ty không trả lại thì bà N cũng phải chịu rủi ro cùng.
Những người làm chứng là ông Q, bà B, ông Cát, ông Long đều thống nhất trình bày: Biết bà H là trưởng nhóm của những người chơi đa cấp. Các ông bà cũng đã gặp bà H tại trụ sở của công ty bán hàng đa cấp đó để nộp tiền vào công ty. Họ không chứng kiến trực tiếp sự việc bà N giao tiền cho bà H. Nhưng là người chứng kiến việc bà H nộp tiền vào công ty đa cấp. Họ cũng đều là nạn nhân và cũng bị mất hết số tiền đã nộp vào công ty này. Khi nộp tiền không ai được giao nhận bất cứ giấy tờ biên nhận gì, chỉ được cấp mã số và nhân viên nhập vào máy tính của công ty. Hiện cũng không đòi lại được tiền từ công ty này. Ai tham gia chơi cũng đều mất hết mà không biết họ ở đâu để khởi kiện.
Với nội dung trên, bản án sơ thẩm căn cứ vào các Điều 87, 147, 272, 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 166, 274, 275, 276, 463, 346 và Điều 688 Bộ luật Dân sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án.
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị N và yêu cầu của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là ông Nguyễn Khắc S về việc buộc bà Trần Thị H trả lại khoản tiền đã nhận của bà N. Buộc bà Trần Thị H có nghĩa vụ trả lại cho bà Nguyễn Thị N và ông Nguyễn Khắc S số tiền đã nhận là 41.400.000 đồng.
Không chấp nhận yêu cầu của ông Nguyễn Khắc S về việc buộc bà Trần Thị H thanh toán khoản tiền lãi trên số tiền đã nhận.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí, nghĩa vụ thi hành án và quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật.
Ngày 12/7/2023, bà Trần Thị H có đơn kháng cáo toàn bộ bản án.
Tại phiên tòa phúc thẩm nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt; bị đơn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh BN tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến về việc tuân thủ pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa; việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý phúc thẩm cho đến phần tranh luận tại phiên tòa là đảm bảo theo đúng trình tự, quy định của pháp luật. Về nội dung, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308, Điều 148 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, xử giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Bà Trần Thị H phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của bà Trần Thị H nộp trong hạn luật định là kháng cáo hợp lệ nên được chấp nhận xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
[2]. Về nội dung: Giữa bà Nguyễn Thị N và bà Trần Thị H không có quan hệ huyết thống hoặc nuôi dưỡng nhưng chơi với nhau nhưng bà H gọi bà N là mẹ nuôi. Theo bà N trình bày, bà có cho bà H vay số tiền 41.400.000 đồng và bà H có viết biên nhận với nội dung: Cầm của mẹ số tiền 41.400.000 đồng. Do đó bà N khởi kiện yêu cầu bà H phải trả bà số tiền 41.400.000 đồng, bà N không yêu cầu bà H phải trả lãi; phía bị đơn là bà Trần Thị H thừa nhận bà có viết biên nhận với bà N như vậy là đúng. Nhưng đó không phải là tiền vay mà là tiền bà N gửi bà để nộp vào công ty bán hàng đa cấp hộ bà N. Hiện tại công ty này không còn hoạt động và không có trụ sở tại địa điểm cũ nữa do đó số tiền của bà N đã mất. Vì vậy bà H không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Bản án sơ thẩm xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn buộc bà Trần Thị H phải trả cho bà Nguyễn Thị N số tiền là 41.400.000 đồng.
Sau khi xét xử sơ thẩm, bà Trần Thị H có đơn kháng cáo toàn bộ bản án.
Xét kháng cáo của bà Trần Thị H, Hội đồng xét xử thấy: Căn cứ vào giấy biên nhận ngày 29/6/2013 thể hiện nội dung: Ngày 29/6/2013 cầm của mẹ 41.400.000 đồng, không có nội dung về thỏa thuận về việc vay tiền, về thời hạn vay, lãi suất. Phía bà N cho rằng mặc dù không ghi thời hạn vay và lãi suất nhưng các bên thỏa thuận miệng là vay không thời hạn, không lãi suất, khi nào bà N cần thì yêu cầu bà H trả; phía bà H không công nhận lời trình bày của bà N. Bà N cung cấp tài liệu, chứng cứ là giấy biên nhận còn không có chứng cứ nào thể hiện việc cho bà H vay số tiền trên. Do đó, căn cứ vào Điều 463 Bộ luật Dân sự năm 2015 Tòa án cấp sơ thẩm xác định đây không phải là quan hệ về hợp đồng vay tài sản là phù hợp.
Trong quá trình giải quyết vụ án, bà H cho rằng bà N tham gia chơi bán hàng đa cấp để được hưởng lãi cao hơn lãi suất ngân hàng mà bà H là trưởng nhóm nên bà N đã nhờ bà H mang tiền nộp vào công ty đa cấp để đóng đủ tiền cho một gói chơi nhưng bà H không cung cấp được tài liệu, chứng cứ thể hiện việc bà N nhờ bà H đóng tiền đa cấp cũng như không có giấy tờ gì của phía công ty xác nhận bà N có mua gói chơi với số tiền là 41.400.000 đồng. Bà H trình bày bà chỉ nhận 17.000.000 đồng từ bà N còn lại 24.400.000 đồng là tiền của bà bù vào nhưng bà H lại thừa nhận bà là người viết giấy biên nhận cầm số tiền 41.400.000 đồng của bà N, ngoài ra không có ai chứng kiến hay xác nhận bà N chỉ đưa số tiền 17.000.000 đồng cho bà H. Do đó, căn cứ vào Điều 166 Bộ luật Dân sự 2015 Tòa án cấp sơ thẩm xác định bà N có quyền đòi lại tài sản từ phía bà H là phù hợp.
Ngoài ra, bà H kháng cáo cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm không đưa Công ty tập đoàn thế giới diệu kì tham gia tố tụng, Hội đồng xét xử thấy bà N chỉ khởi kiện đòi bà H số tiền 41.400.000 đồng, bà N không thừa nhận việc nhờ bà H đi gửi tiền tham gia chơi đa cấp, phía bà H cũng xác nhận viết giấy biên nhận cầm 41.400.000 đồng của bà N, những người làm chứng là ông Dương Văn C, ông Đỗ Xuân L và bà Nguyễn Thị Cần cũng chỉ xác nhận bà H là người tham gia chơi đa cấp và chứng kiến việc bà H đi đóng tiền chứ không chứng kiến việc bà N giao tiền cho bà H hay bà N tham gia chơi đa cấp. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xác nhận quan hệ pháp luật của vụ án là “Kiện đòi tài sản” giữa bà N và bà H và không đưa Công ty tập đoàn thế giới diệu kì tham gia tố tụng là phù hợp.
Như vậy, bản án sơ thẩm xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn buộc bà Trần Thị H phải trả cho bà Nguyễn Thị N số tiên 41.400.000 đồng là có căn cứ pháp luật.
Bà Trần Thị H kháng cáo nhưng không cung cấp được tài liệu, chứng cứ mới nên không có cơ sở chấp nhận.
[3]. Về án phí: Bà Trần Thị H phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự, xử giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Áp dụng Điều 166, 274, 275, 276, 463, 346 và Điều 688 Bộ luật Dân sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án.
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị N và yêu cầu của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Nguyễn Khắc S về việc buộc bà Trần Thị H trả lại khoản tiền đã nhận của bà N. Buộc bà Trần Thị H có nghĩa vụ trả lại cho bà Nguyễn Thị N và ông Nguyễn Khắc S số tiền 41.400.000đ (B mươi mốt triệu B trăm nghìn đồng).
Không chấp nhận yêu cầu của ông Nguyễn Khắc S về việc buộc bà Trần Thị H thanh toán khoản tiền lãi trên số tiền đã nhận.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
2. Về án phí: Bà Trần Thị H phải chịu 2.070.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.
Bà Trần Thị H phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm. Xác nhận bà Trần Thị H đã nộp 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm theo biên lai thu số 0560 ngày 12/7/2023 của Chi cục thi hành án thành phố TS.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về kiện đòi tài sản số 92/2023/DS-PT
Số hiệu: | 92/2023/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Bắc Ninh |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 29/09/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về