Bản án về kiện đòi tài sản số 37/2024/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BC GIANG

BẢN ÁN 37/2024/DS-PT NGÀY 22/02/2024 VỀ KIỆN ĐÒI TÀI SẢN

Trong ngày 22/02/2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 226/2023/TLPT-DS ngày 24/10/2023, về việc “kiện đòi tài sản” do Bản án dân sự sơ thẩm số 38/2023/DS-ST ngày 09/8/2023 của Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 270/2023/QĐ-PT ngày 15/12/2023, Quyết định hoãn phiên tòa số 14/2024/QĐ-PT ngày 22/01/2024 giữa:

Nguyên đơn: ông Nghiêm Xuân T, sinh năm 1928 (đã chết năm 2018) và bà Nguyễn Thị C, sinh năm 1931 (đã chết năm 2015);

Đều cư trú: tổ dân phố số A, thị trấn K, huyện L, tỉnh Bắc Giang.

Những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của của ông T, bà C và có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Bà Nghiêm Thị H, sinh năm 1951 (có mặt);

2. Bà Nghiêm Thị H1, sinh năm 1954 (có mặt);

3. Ông Nghiêm Xuân H2, sinh năm 1957 (đã chết 2010);

Người thừa kế thế vị của ông H2: anh Nghiêm Xuân H3, sinh năm 1986 (có mặt);

Đều cư trú: tổ dân phố số 1, thị trấn Kép, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang

4. Bà Nghiêm Thị Hoài B, sinh năm 1959 (có mặt);

Địa chỉ: số nhà I, đường T, phường T, thành phố N, tỉnh Nam Định.

5. Bà Nghiêm Thị K, sinh năm 1961 (vắng mặt);

Địa chỉ: 6, khu phố D, phường H, quận A thành phố Hồ Chí Minh;

6. Bà Nghiêm Thị H4, sinh năm 1963 (vắng mặt);

Địa chỉ: số nhà D, ngõ A, N, phường N, thành phố P, tỉnh Hà Nam.

7. Ông Nghiêm Xuân T1, sinh năm 1965 (vắng mặt);

Hiện đang đi tu tại Chùa C2, thị trấn V, huyện L, tỉnh Bắc Giang.

8. Ông Nghiêm Xuân N, sinh năm 1969 (vắng mặt);

9. Ông Nghiêm Xuân H5, sinh năm 1972 (có mặt);

10. Nghiêm Xuân M, sinh năm 1974 (có mặt);

Đều có địa chỉ: tổ dân phố số A, thị trấn K, huyện L, tỉnh Bắc Giang Đồng bị đơn:

1. Ủy ban nhân dân (UBND) huyện L do ông Nghiêm Phú S, chức vụ: Trưởng phòng Tài nguyên và môi trường huyện L đại diện theo ủy quyền theo văn bản ủy quyền ngày (vắng mặt);

2. Công ty cổ phần dược phẩm tỉnh B - Đại diện theo pháp luật: ông Nguyễn Văn S1, Chủ tịch Hội đồng quản trị, kiêm Giám đốc công ty (vắng mặt);

Địa chỉ: lô Q, đương N, phường H, thành phố B, tỉnh Bắc Giang, ủy quyền cho bà Đỗ Phương T2, sinh năm 1982, địa chỉ: số nhà D, ngõ G, đường H, tổ dân phố T, phường L, thành phố B, tỉnh Bắc Giang (có mặt tại phiên tòa ngày 22/01/2024, vắng mặt tại phiên tòa ngày 22/02/2024);

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1. UBND tỉnh B do ông Nguyễn Văn C1, chức vụ: Phó trưởng phòng khí tượng thủy văn và biến đổi khí hậu Sở tài nguyên và môi trường tỉnh B đại diện theo ủy quyền theo văn bản ủy quyền ngày (vắng mặt);

2. UBND thị trấn V, huyện L do ông Nguyễn Văn M1 - Chủ tịch đại diện (vắng mặt).

3. Chị Nguyễn Thị N1, sinh năm 1983 (vắng mặt);

Địa chỉ: phố V, thị trấn V, huyện L, tỉnh Bắc Giang.

Người kháng cáo: bà Nghiêm Thị Hoài B - là người kế thừa quyền và nghĩa vụ của ông T, bà C.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Bản án dân sự sơ thẩm số 38/2023/DS-ST ngày 09/8/2023 của Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang, thì nội dung vụ án như sau:

Nguyên đơn và người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày: đầu những năm 1960 gia đình ông T có chuyển vào Xí nghiệp 2/9 công tác, do có nhu cầu nhà ở nên ngày 30/12/1964 ông có mua của ông Nguyễn Đức M2 ở phố V, xã Y (nay là thị trấn V) 01 nhà tranh 04 gian trên nền diện tích đất 113,5m2 với số tiền 400 đồng. Vị trí tiếp giáp như sau: phía Bắc giáp nhà ông Q, N1 có chiều dài 11,50m, phía Đông tiếp giáp với phần công viên có chiều dài 9m, phía Tây tiếp giáp với quốc lộ A có chiều dài 9 m2, phía Nam tiếp giáp với phần diện tích công viên có chiều dài 11,50m2.

Ngày 27/09/1965, ông T có mua tiếp của ông Hoàng Phúc D ở phố V nhà tranh 04 gian trên nền đất 114, 8m2 với giá 350đồng, vị trí tiếp giáp như sau: phía Bắc giáp Công viên chiều dài 12,40m2, phía Đông tiếp giáp với sân của Công ty D3 có chiều dài 9,20m2, phía Tây tiếp giáp với quốc lộ A có chiều dài 9,20m2, phía Nam tiếp giáp với dẫy nhà của cửa hàng D1 có chiều dài 12,40m2.

Tổng 02 mảnh đất có diện tích 227m2, tài sản trên đất có nhà cấp 4, bếp, công trình phụ, giếng nước. Việc mua bán có đầy đủ giấy tờ và chứng nhận của UBND xã Y, trên giấy tờ mua bán chỉ ghi bán nhà, nhưng thực tế là chuyển nhượng quyền sử dụng đất (QSDĐ) vì lúc đó Nhà nước không cho phép giao dịch QSDĐ. Do chiến tranh đánh phá, năm 1967 gia đình ông T phải đi sơ tán, từ khi đi sơ tán thì gia đình ông T không quản lý đất. Ngày 28/07/1970, Cửa hàng dược phẩm huyện L (cửa hàng dược) đã phá nhà, san lấp và lấy toàn bộ diện tích 114,8m2 đất của gia đình ông T mà không có sự thoả thuận, thống nhất đền bù và diện tích 113,5m2 UBND huyện L đã san lấp làm công viên cây xanh. Sau khi sự việc sẩy ra ông T đã nhiều lần làm đơn khiếu nại, đến ngày 20/05/2009, Chủ tịch UBND huyện L đã hướng dẫn ông T khởi kiện tại Tòa án. Nên ông T, bà C làm đơn khởi kiện yêu cầu:

- Công ty cổ phần dược phẩm tỉnh B (Công ty D3) trả lại cho gia đình ông T diện tích 114,8m2 nằm trong tổng số diện tích đất 877,3m2, tại thửa đất số 68, tờ bản đồ số 30 đã được UBND huyện L cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) cho Công ty cổ phần dược phẩm tỉnh B ngày 04/10/ 2007;

- UBND huyện L phải trả cho gia đình ông T diện tích 113,5m2 hiện nay đang sử dụng làm công viên. Không yêu cầu bồi thường về tài sản trên đất.

Bị đơn - đại diện UBND huyện L trình bày: Về nguồn gốc và quá trình xem xét vụ việc của hộ ông Nghiêm Xuân T và bà Nguyễn Thị C: hộ T cung cấp Giấy bán nhà viết ngày 30/12/1964 do ông Nguyễn Đức M2 nhượng cho ông T 4 gian nhà danh, có chứng thực của UBHC xã Y ngày 30/12/1964 (bản phô tô), mặt sau của giấy có vẽ hình thể, cự ly đất (dài 11m50, rộng 9m, diện tích 113,5m2) nhưng không thể hiện giáp ranh liền kề; Giấy bán nhà viết ngày 27/9/1965 do ông Hoàng Phúc Dương n cho ông T 4 gian nhà ở phố V, có chứng thực của UBHC xã Y ngày 27/9/65, mặt sau của giấy có vẽ hình thể, cự ly đất (dài 12m40, rộng 9,2m, diện tích 114,08m2) nhưng không thể hiện giáp ranh đất liền kề.

Năm 1967 gia đình ông T, bà C có đơn xin sơ tán (do địch bắn phá cháy hết nhà cửa) về HTX T, xã Đ, được UBHC xã Y xác nhận ngày 15/12/1967. Năm 1969, Cửa hàng dược đề nghị xin đất xây dựng cửa hàng (khu đất công của phố V xã Y sơ tán đã đi nơi khác diện tích 1000m2) thể hiện tại văn bản số 39/HC ngày 03/10/1969, được UBHC xã Y (nay là UBND thị trấn V) xác nhận ngày 03/10/1969 và UBHC huyện L xác nhận ngày 04/10/1969 (văn bản này được UBND huyện L sao y bản chính ngày 19/8/1980). Năm 1970 Cửa hàng dược san lấp xây dựng cửa hàng bán thuốc trên đất, theo ông T trình bầy khi đó ông có khiếu nại đến các cơ quan Viện kiểm sát, Tòa án nhân dân, UBHC huyện L. Ngày 07/7/1972 UBHC huyện L có văn bản số 03/XKT thông báo đã nhận được đơn khiếu, tố của ông T gửi ngày 30/6/1972, ngoài ra không giải quyết gì khác.

Đến năm 2004, ông T có đơn gửi Thanh tra huyện khiếu nại việc Cửa hàng dược năm 1970 san lấp tài sản và đất của gia đình ông đề xây dựng cửa hàng bán thuốc không thỏa thuận và đền bù cho gia đình ông theo quy định của pháp luật. Thanh tra huyện đã trả lời đơn của ông T tại văn bản số 113/CV-TTr ngày 29/12/2004 và văn bản số 31/TTr ngày 06/3/2008. Đến năm 2009, ông T tiếp tục gửi đơn đến UBND huyện đề nghị giải quyết tranh chấp QSDĐ giữa gia đình ông với Cửa hàng dược, Chủ tịch UBND huyện L có Công văn số 432/UBND-TTr ngày 20/5/2009 về việc trả lời đơn của ông T nêu rõ vụ việc không thuộc thẩm quyền của UBND huyện L.

Hiện nay Công ty D3 trực tiếp là Cửa hàng dược phẩm huyện L đang sử dụng 877,3m2 tại thị trấn V, huyện L, được UBND tỉnh B cấp GCNQSDĐ tại Quyết định số 1657/QĐ-UBND ngày 04/10/2007 (năm 1997 khi Nhà nước thu hồi đất mở rộng quốc lộ A, Công ty bị thu hồi 180,9m2 đất). Công ty D3 sử dụng đất ổn định, đã thực hiện đăng ký QSDĐ và được UBND tỉnh B giao đất sử dụng với hình thức thuê đất sản xuất kinh doanh và cấp GCNQSDĐ đúng với quy định tại Điều 51 và Điều 107, Luật Đất đai năm 2003, Điều 52, Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai.

Về nguồn gốc đất sử dụng làm Công viên cây xanh, phố V, thị trấn V: theo Quyết định số 768/QĐ-UB ngày 04/9/1976 của UBND tỉnh H (cũ) về trưng dụng khu đất 2.100m2 của một số hộ sử dụng đất tại phố V (không có trưng dụng đất của hộ ông Nghiêm Xuân T), để giao cho Công ty N2 xây dựng cửa hàng nông sản thực phẩm huyện L. Đến năm 1989, Cửa hàng N2 thực phẩm huyện L không còn sử dụng đất, UBND huyện L đưa đất này sang sử dụng làm chợ Vôi. Theo bản đồ địa chính xã Y (cũ) và sổ mục kê lập năm 1992 theo dõi đất chợ Vôi tại thửa đất số 486, diện tích 5.730m2, tờ bản đồ số 19 và theo bản đồ địa chính thị trấn V đo đạc năm 2000, đất chợ Vôi thể hiện tại thửa đất số 54, diện tích 5.392,7m2, tờ bản đồ số 30, do UBND thị trấn V quản lý, sử dụng làm chợ Vôi.

Năm 2001, chợ V chuyển về vị trí mới tại thôn T, đất chợ V (cũ) ở phố V được u công viên cây xanh từ năm 2002 đến nay. Quá trình quản lý, sử dụng đất để xây dựng Cửa hàng nông sản thực phẩm, sau đó là xây dựng chợ V và sau này xây dựng công viên cây xanh cơ quan Nhà nước sử dụng ổn định, liên tục không có khiếu nại gì của gia đình ông T. Mặt khác UBND huyện L không nhận được bất kỳ khiếu nại hoặc tranh chấp đất đai của hộ ông T về khu đất nêu trên. Từ năm 1970, năm 2004 và 2009 ông Tôn chỉ đề nghị giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất giữa gia đình ông với Cửa hàng dược phẩm L. Gia đình ông T không cung cấp được văn bản hoặc quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về thu hồi diện tích 113,5m2 đất của gia đình ông mà hiện nay Nhà nước sử dụng làm Công viên cây xanh như đã nêu ở trên.

Ông T, bà C khởi kiện tranh chấp đất với UBND huyện L đối với diện tích 113,5m2 đất hiện nay đang sử dụng làm Công viên cây xanh là không phù hợp quy định tại Điều 135, Điều 136, Luật Đất đai 2003; Điều 202, Điều 203 Luật Đất đai năm 2013. Vì UBND huyện L thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu về đất đai và quản lý nhà nước về đất đai tại địa phương theo thẩm quyền quy định tại Điều 7 Luật Đất đai năm 2003; Điều 13 Luật Đất đai năm 2013. Việc quản lý đất công viên cây xanh của cơ quan Nhà nước không có quan hệ pháp luật trực tiếp về quyền và nghĩa vụ liên quan đến đất đai với nguyên đơn để phát sinh tranh chấp.

Tại khoản 2, Điều 10 Luật Đất đai 2003; khoản 5 Điều 26 Luật Đất đai năm 2013 quy định: Nhà nước không thừa nhận việc đòi lại đất đã được giao theo quy định của Nhà nước cho người khác sử dụng trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của N3 dân chủ cộng hòa, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền N Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Về phần diện tích đất làm công viên cây xanh hiện nay trên phần diện tích đất này có một phần xây dựng bể bơi do gia đình bà Nguyễn Thị N1, anh T3 xây dựng, giữa gia đình bà N1 với UBND huyện L và thị trấn V không có hợp đồng mà có việc giao cho vợ chồng bà H6 trông nom, quản lý và bảo vệ tài sản công viên và có tạo điều kiện cho gia đình bà H6 làm để tăng thêm thu nhập, khi nào UBND huyện L cần sử dụng thì gia đình chị H6 phải trả lại đất và công trình trên đất.

Từ căn cứ trên, quan điểm của U1 rằng đây là việc đòi lại quyền sử dụng đất. Song việc đòi lại đất của hộ ông Nghiêm Xuân T và bà Nguyễn Thị C là không có cơ sở. UBND huyện L không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông T, bà C.

Bị đơn - Công ty cổ phần dược phẩm tỉnh B trình bày: nguồn gốc diện tích đất 877,3m2, tại thửa đất số 68, tờ bản đồ số 30, tại thị trấn V, huyện L đã được UBND huyện L cấp GCNQSDĐ cho Công ty Dược ngày 04/10/2007, đã sử dụng từ những năm 1960, đến ngày 03/10/1969 Cửa hàng dược có đơn xin xây dựng cửa hàng và được UBND huyện L giao đất ngày 04/10/1969 diện tích 1000m2. Nội dung xin xây dựng năm 1969 là theo quy hoạch xây dựng và thuận tiện cho việc đi lại của người dân. Cửa hàng dược đề nghị U2, UBHC huyện L, UBHC xã Y đồng ý cho xây dựng tại địa điểm mà trước đó Cửa hàng dược đã xây dựng với diện tích 1000m2, dọc chiều dài đường quốc lộ là 50m, chiều sâu là 20m. Qua các thời kỳ sử dụng đến năm 2007, Công ty D3 được UBND tỉnh B cấp GCNQSDĐ, thời hạn sử dụng đến ngày 05/02/2052, có thu tiền thuê đất hàng năm. Quá trình giải quyết vụ án Công ty D3 đã cung cấp các tài liệu cho Tòa án về các tài liệu chứng cứ về hồ sơ xin thuê đất. Nay ông T, bà C yêu cầu Công ty cổ phần dược phẩm tỉnh B phải trả lại diện tích 114,8m2, Công ty không đồng ý vì Công ty được giao đất đúng quy định pháp luật.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan - đại diện UBND tỉnh B trình bày: ngày 03/10/1969, Cửa hàng D có công văn số 39/ HC về việc xin đất xây dựng cửa hàng gửi UBHC tỉnh U2, UBHC huyện L và UBHC xã Y được UBHC xã Y xác nhận ngày 04/10/1969 có nội dung: Theo quy hoạch xây dựng khu vực kinh tế của huyện tại phố V, xã Y, huyện L. Để phục vụ nhân dân và bệnh nhân đi mua thốc được tiện hơn. Cửa hàng dược đề nghị UBHC tỉnh U2, UBHC huyện L và UBHC xã Y đồng ý cho cửa hàng xây dựng lại địa điểm (cạnh phía trên Xí nghiệp thương nghiệp) trên khu đất công của phố V, xã Y giờ đã dời đi nơi khác với diện tích là 1000m2 (dọc quốc lộ số 1 là 20 m, chiều sâu phí sau là 50m) có bản vẽ kèm theo. Cửa hàng D1 sử dụng vào mục đích kinh doanh ổn định từ năm 1969. Theo bản đồ đo đạc năm 1993, đất của Công ty có diện tích 1.100m2, thuộc thửa đất số 487, tờ bản đồ số 19, theo bản đồ đo đạc năm 2000 đất của Công ty có diện tích 906,3m2 thuộc thửa đất số 68, tờ bản đồ số 30.

Thực hiện Luật đất đai năm 2003, Công ty có đơn xin thuê đất, kèm theo trích lục bản đồ quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch chi tiết xây dựng thị trấn V, báo cáo rà soát hiện trạng quản lý và sử dụng đất, phương án sản xuất kinh doanh. Trên cơ sở đề xuất của các đơn vị, ngày 05/02/2007, UBND tỉnh có Quyết định số 163/QĐ- UBND cho Công ty thuê diện tích 877,3m2, tại thị trấn V, thời gian sử dụng 45 năm; mục đích sử dụng đất làm cơ sở kinh doanh. Ngày 16/08/2007, Sở T ký hợp đồng số 974/ HĐTĐ cho Công ty thuê diện tích 877,3m2, Công ty được cấp GCNQSDĐ số sê ri AL 036437 với diện tích 877,3m2, tại Quyết định số 1457/QĐ-UBND ngày 04/10/2007 của UBND tỉnh. Hiện trạng khu đất đã xây dựng các công trình phục vụ kinh doanh, tường bao làm ranh giới, Công ty vẫn sử dụng vào mục đích kinh doanh dược phẩm.

Ông T cho rằng đất Công ty đã được cấp giấy chứng nhận thì có một phần diện tích của ông T mua của ông Nguyễn Đức M2 năm 1964. Qua làm việc với các cơ quan ông T cung cấp hồ sơ mua bán nhà đất giữa ông T với ông M2 là “Giấy bán nhà” viết tay đề ngày 30/12/1964 (có xác nhận của UBHC xã Y) với nội dung: Tôi Nguyễn Đức M2 25 tuổi, trú quán phố V, xã Y có 04 gian nhà tranh, vì điều kiện không phù hợp với sản xuất nông nghiệp, muốn chuyển vào đội sản xuất, nay đồng ý nhượng lại cho anh T công nhân xí nghiệp B1 với giá 400 đồng, số tiền tôi nhận đủ nay bàn giao nhà cho anh T sử dụng. Nếu sai tôi xin chịu trách nhiệm. Kèm theo giấy bán nhà là sơ đồ thửa đất hình chữ nhật có kích thước là 12,4x9,2. Các cạnh thửa đất không ghi tiếp giáp với hộ gia đình hay tổ chức nào khác sử dụng.

Quan điểm của UBND tỉnh B: nguồn gốc quá trình Công ty D3 sử dụng ổn định, rõ ràng, UBND tỉnh đã cho Công ty thuê và cấp GCNQSDĐ toàn bộ diện tích 877,3 m2 đúng với quy định tại Điều 51 Luật đất đai năm 2003 và Điều 52 Nghị định 181/ NĐ-CP ngày 29/10/ 2004 của Chính Phủ về thi hành Luật đất đai. Ông T cho rằng UBND tỉnh cấp GCNQSDĐ cho Công ty D3 diện tích 877,3m2 trong đó có cả diện tích đất của nhà ông T là không có căn cứ pháp luật. Đề nghị Tòa án giữ nguyên quyết định số: 163/QĐ-UBND ngày 05/02/2007 và Quyết định số 1457/QĐ-UBND ngày 04/10/2007 của UBND tỉnh cho Công ty thuê đất và cấp GCNQSDĐ. Theo quy định tại khoản 2 Điều 10 Luật đất đai năm 2003 Nhà nước không thừa nhận việc đòi lại đất đã được giao theo quy định của Nhà Nước cho người khác sử dụng trong quá trình Nhà nước thực hiện chính sách đất đai của nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Chính phủ cách mạng lâm thời công hoà M3 và Nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nên đối với yêu cầu khởi kiện của ông T, bà C là không có căn cứ.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan - đại diện UBND thị trấn V không có quan điểm ý kiến trình bày và có văn bản về việc không tham gia tố tụng.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan - bà Nguyễn Thị N1 trình bày: ngày 29/04/2014, UBND huyện L có ký hợp đồng thuê khoán giao cho bà trực tiếp trông nom, quản lý và bảo vệ tài sản của Công viên thị trấn Vôi kết hợp với làm dịch vụ vui chơi, giải trí cho các cháu thiếu nhi. Tháng 04/ 2014, bà có xây dựng bể bơi để kinh doanh. Đối với phần diện tích ông T khởi kiện thì nằm trong một phần diện tích gia đình bà xây dựng bể bơi có làm nhà khung sắt, lợp tôn, về tài sản trên diện tích bà đầu tư xây dựng nếu đất trả lại cho người khởi kiện thì bà đề nghị bồi thường các tài sản mà bà đã xây dựng, bà không làm đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại. Nếu UBND huyện có nhu cầu sử dụng đến thì gia đình bà sẽ trả lại và không có yêu cầu giải quyết.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và kế thừa quyền và nghĩa vụ và kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của của Ông T, bà C gồm có: bà Nghiêm Thị H, bà Nghiêm Thị H1, ông Nghiêm Xuân N, ông Nghiêm Xuân T4, ông Nghiêm Xuân H5, ông Nghiêm Xuân M trình bày: các ông, bà đã nhận được các văn bản của Tòa án. Đối với yêu cầu khởi kiện của ông T, bà C các ông, bà vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, đồng ý với lời khai tại Tòa án của bố mẹ và ông Nghiêm Xuân T5 là người được bố mẹ ủy quyền, ông bà không làm đơn và không nộp các chi phí tố tụng theo yêu cầu của Tòa án. Về diện tích đất bố mẹ các ông, bà mua thì gia đình có ở trên tài sản bố mẹ mua tại thị trấn V, nhưng ở thời gian nào, khi nào đi sơ tán thì các ông, bà không nhớ, sau khi sơ tán thì gia đình về thị trấn K sinh sống và không quay lại đất đã mua tại T. Do quá trình khởi kiện bố, mẹ các ông, bà đã ủy quyền cho ông T5, ông T5 đang giữ các tài liệu liên quan đến việc khởi kiện của bố mẹ các ông, bà, nên các ông, bà từ chối tham gia tố tụng tại Tòa án, nay để ông T5 tiếp tục đến Tòa án tham gia việc kiện, các ông, bà không liên quan đến việc khởi kiện của bố mẹ nữa. Sau khi bố mẹ các ông, bà chết thì các anh, chị em có ủy quyền cho ông T5 hay không thì các ông, bà không nhớ, nhưng không có văn bản ủy quyền và tài liệu nộp cho Tòa án. Hiện nay các ông, bà không biết địa chỉ của ông nghiêm X, không biết ông T5 đang ở đâu và làm gì. Các ông, bà đã thông báo cho bà B, bà H4, bà K thì bà B, bà H4 có nói: do các bà ở xa đi lại khó khăn, nên không đến Tòa án làm việc, còn bà K mới bị tai biến, không còn tỉnh táo nên không liên lạc và không xác định được địa chỉ của bà K.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và kế thừa quyền và nghĩa vụ và kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của của ông T, bà C - bà Nghiêm Thị Hoài B trình bày: Bà có biết việc kiện của bố mẹ bà đối với Công ty D3 và UBND huyện L, hiện bố mẹ bà đã chết nên bà nhận kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bố mẹ bà tại Tòa án nhưng bà không làm đơn đề nghị. Bà sẽ đến Tòa án làm việc. Hiện toàn bộ tài liệu liên quan đến việc kiện do ông T5 là người giữ lên bà không có nộp cho Tòa án và các anh, chị em bà vẫn thống nhất ủy quyền cho ông Nghiêm Xuân T5 đến Tòa án làm việc. Về địa chỉ của bà K thì vào tháng 03/ 2023 bà K bị tai biến không còn tỉnh táo, bà không có địa chỉ của bà K cung cấp cho Tòa án.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là người thừa kế thế vị của ông Nghiêm Xuân H2 - anh Nghiêm Xuân H3 đã được Tòa án thông báo nhưng không có ý kiến cung cấp cho Tòa án.

Quá trình giải quyết vụ án Tòa án có định giá, thẩm định tài sản toàn bộ tài sản trên diện tích đất do ông do Nghiêm Xuân T5 xác định là diện tích đất ông T, bà C đã mua, hiện nay một phần Công ty D3 đang quản lý sử dụng và một phần đang làm công viên cây xanh. Kết quả thẩm định và định giá tài sản như sau:

1. Đất ở theo giá chuyển nhượng địa phương là 15.000.000 đồng/m2.

2. Các tài sản trên diện tích đất do Công ty D3 quản lý, xây dựng: 01 nhà tạm loại A diện tích 89,24m2, trị giá 50.911.000 đồng; Sân bê tông diện tích 14,31m2, trị giá 377.000đồng; 01 phần nhà cấp 4 loại 2, diện tích 10,53m2, nằm trong tổng diện tích nhà 24,3m2);

3. Các tài sản trên diện tích đất làm Công viên cây xanh: Tôn làm tường rào diện tích 10,5m2, trị giá 262.000 đồng; Bán mái tôn diện tích 17m2 trị giá 5.312.000 đồng; Sân gạch diện tích 22,5m, trị giá 1.237.000 đồng; Tường bao diện tích 23 m2, trị giá 3.657.000 đồng; Bể bơi lớn diện tích 24,75m2, trị giá 85.400.000 đồng; 01 phần bể bơi trẻ em diện tích 6m2 trị giá 7.650.000 đồng Với nội dung trên, Bản án dân sự sơ thẩm 38/2023/DS-ST ngày 09/8/2023 của Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang đã căn cứ Điều 140, 155 Bộ luật dân sự 2015; Căn cứ Điều 1 Luật đất đai 1987, Điều 7, khoản 2, Điều 10 Luật Đất đai 2003; khoản 5 Điều 26 Luật Đất đai năm 2013. Xử: không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nghiêm Xuân T, bà Nguyễn Thị C và những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông T, bà C về yêu cầu UBND huyện L trả lại diện tích 114,8m2 hiện nay đang sử dụng làm công viên cây xanh tại thửa số 54, tờ bản đồ số 50, diện tích 5.392,7 m2 và Công ty cổ phần D trả lại diện tích 113,5 m2 nằm trong tổng diện tích 877,3m2, tại thửa đất số 68, tờ bản đồ số 30, tại thị trấn V, huyện L đã được UBND tỉnh B cấp Giấy chứng nhận QSD đất cho Công ty Dược ngày 04/10/2007.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí và quyền kháng cáo cho các bên đương sự.

Ngày 07/9/2023, bà Nghiêm Thị Hoài B kháng cáo Bản án sơ thẩm, đề nghị Tòa án phúc thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của cụ T, cụ C.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bà B vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện của bố mẹ bà và giữ nguyên yêu cầu kháng cáo của bà, bà H, bà H1, anh H3, ông H5, ông M giữ nguyên yêu cầu khởi kiện của bố mẹ các ông, bà; đồng bị đơn vắng mặt tại phiên tòa; các đương sự không cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ nào mới.

Bà B phát biểu ý kiến: đề nghị HĐXX phúc thẩm giải quyết vụ án đảm bảo quyền lợi của bố mẹ và các anh chị em bà.

Bà H, bà H1, anh H3, ông H5, ông M nhất trí ý kiến của bà B, không bổ sung gì, đề nghị HĐXX phúc thẩm giải quyết vụ án theo quy định.

Tham gia phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến: quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý đến khi mở phiên tòa và tại phiên tòa, Thẩm phán, HĐXX, Thư ký đã thực hiện đúng, đủ quy định của BLTTDS, Bị đơn và một số người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt không có lý do đã không thực hiện đúng các quyền nghĩa vụ theo quy định của BLTTDS. Sau khi xem xét yêu cầu kháng cáo của bà B, phân tích nội dung, các tình tiết của vụ án, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang đề nghị HĐXX căn cứ khoản 1 Điều 308 BLTTDS, xử: không chấp nhận kháng cáo của bà B, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử (HĐXX) nhận định:

[1]. Về tố tụng: tại phiên tòa phúc thẩm việc vắng mặt lần thứ hai không có lý do của bị đơn và một số người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, một số người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng không có kháng cáo. HĐXX căn cứ khoản 3 Điều 296 của BLTTDS tiếp tục tiến hành xét xử vụ án.

[2]. Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, HĐXX thấy:

[2.1]. Về yêu cầu Công ty cổ phần dược phẩm tỉnh B trả lại cho gia đình ông T diện tích 114,8m2 nằm trong tổng số diện tích đất 877,3m2, tại thửa đất số 68, tờ bản đồ số 30 đã được UBND tỉnh B cấp GCNQSDĐ cho Công ty D3 ngày 04/10/ 2007 và UBND huyện L trả lại cho gia đình ông diện tích 113,3m2 hiện nay đang làm công viên cây xanh tại trị trấn Vôi thì thấy: Giấy bán nhà ngày 30/12/1964 thể hiện “Tôi Nguyễn Đức M2 25 tuổi có 04 gian nhà gianh vì điều kiện không phù hợp với sản xuất nông nghiệp, nay tôi nhượng lại cho anh Xuân T công nhân xí nghiệp B1 với giá tiền là 400 đồng”, giấy bán nhà có chứng thực của UBND xã Y, mặt sau giấy bán nhà có vẽ sơ đồ thể hiện có bếp, nhà ngang, giếng, kích thước một cạnh có chiều dài 11m50 và một cạnh có chiều dài 10m, tổng diện tích 113,5m. Giấy bán nhà ngày 27/09/1965 thể hiện “Tôi Nguyễn Phúc D2 trú quán phố V, xã Y có 01 nếp nhà 04 gian nay không dùng nên bán lại cho ông Nghiêm Xuân T lấy số tiền 370 đồng”, giấy bán nhà có chứng thực của UBND xã Y, mặt sau giấy bán nhà có vẽ sơ đồ thể hiện nhà trên, bếp, bục, kích thước một cạnh có chiều dài 12m40 và một cạnh có chiều dài 9m20, tổng diện tích 114,8m2. Ngoài hai tài liệu này thì nguyên đơn và đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn không cung cấp được bất kỳ tài liệu nào khác chứng minh cho yêu cầu khởi kiện. Ông T và đại diện theo ủy quyền có trình bày, sau khi mua nhà thì gia đình ông T có sinh sống trên 02 ngồi nhà này, sau đó do chiến tranh nên năm 1967 gia đình ông đã đi sơ tán và không quay lại nữa, năm 1970 khi ông T quay lại thì thấy 02 ngôi nhà của ông đã được Cửa hàng dược L san lấp xây dựng các công trình, ông đã làm đơn gửi các cơ quan nhưng không được giải quyết.

Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án thấy: nguồn gốc diện tích đất 877,3m2, thửa đất số 68, tờ bản đồ số 30, tại thị trấn V, huyện L đã được UBND tỉnh B cấp GCNQSDĐ cho Công ty D3 ngày 04/10/2007 đã sử dụng từ những năm 1960, ngày 03/10/1969 Cửa hàng dược phẩm huyện L đề nghị xin đất xây dựng cửa hàng thể hiện tại văn bản số 39/HC ngày 03/10/1969, được UBHC xã Y (nay là UBND thị trấn V) xác nhận ngày 03/10/1969 và UBHC huyện L xác nhận ngày 04/10/1969. Hiện Công ty cổ phần D đang sử dụng diện tích đất này ổn định, đã thực hiện đăng ký QSDĐ và được UBND tỉnh B giao đất và cấp GCNQSDĐ thời hạn đến hết ngày 05/02/2052.

Căn cứ vào tài liệu do nguyên đơn xuất trình thể hiện ông T có mua của ông Nguyễn Đức M2 04 gian nha gianh và mua của ông Hoàng Phúc D 01 nếp nhà 04 gian theo 02 giấy bán nhà kèm theo sơ đồ thửa đất hình chữ nhật có kích thước, các cạnh thửa đất nhưng không ghi tiếp giáp với hộ gia đình hay tổ chức nào khác sử dụng, không xác định được vị trí cụ thể của các thửa đất này.

Đối với diện tích đất tranh chấp hiện đã cấp cho Công ty D3 có căn cứ xác định Cửa hàng D1 đã sử dụng từ những năm 1960, đến năm 1969 cửa hàng dược có đơn đề nghị xin đất xây dựng cửa hàng và đã được UBHC xã Y, UBND huyện L xác nhận đồng ý, Công ty Dược sử dụng ổn định, được cấp GCNQSDĐ theo đúng quy định pháp luật. Vì vậy Tòa án sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông T, bà C đối với diện tích đất này là có căn cứ.

[2.2]. Về nguồn gốc đất sử dụng làm Công viên cây xanh, phố V, thị trấn V: theo Quyết định số 768/QĐ-UB ngày 04/9/1976 của UBND tỉnh H (cũ) về trưng dụng khu đất 2.100m2 của một số hộ sử dụng đất tại phố V (không có trưng dụng đất của hộ ông T), đề giao cho Công ty N2 xây dựng cửa hàng nông sản thực phẩm huyện L. Đến năm 1989, Cửa hàng N2 thực phẩm huyện L không còn sử dụng đất, UBND huyện L sử dụng diện tích đất này làm chợ V. Theo bản đồ địa chính xã Y (cũ) và sổ mục kê lập năm 1992 thửa đất là thửa số 486, diện tích 5.730m2, tờ bản đồ số 19 và theo bản đồ địa chính thị trấn V đo đạc năm 2000, đất chợ Vôi thể hiện tại thửa đất số 54, diện tích 5.392,7m2, tờ bản đồ số 30, do UBND thị trấn V quản lý, sử dụng làm chợ Vôi. Năm 2001, khu đất này được U đến nay. Quá trình quản lý, sử dụng đất ổn định, liên tục không có khiếu nại gì của gia đình ông T.

[2.3]. Đối với phần diện tích đất 113,5 m2 ông T khởi kiện đòi lại, theo Quyết định số 768/QĐ-UB ngày 04/9/1976 của UBND tỉnh H (cũ) về trưng dụng khu đất 2.100m2 của 21 hộ sử dụng đất tại phố V (không trưng dụng đất của hộ ông Nghiêm Xuân T) để giao cho Công ty nông sản xây dựng cửa hàng nông sản thực phẩm huyện N2 (Cửa hàng nông sản). Năm 1989, Cửa hàng nông sản không còn sử dụng đất, UBND huyện L đưa đất này sang sử dụng làm chợ Vôi, theo bản đồ địa chính thị trấn V năm 2000, đất chợ Vôi thể hiện tại thửa số 54, tờ bản đồ số 50, diện tích 5.392,7 m2. Quá trình trung dựng đất, làm chợ V và sau đó làm công viên cây xanh thì UBND huyện L không nhận được bất kỳ khiếu nại hoặc tranh chấp đất đai của hộ ông Nghiêm Xuân T đối với khu đất trên. Từ năm 1970, năm 2004 và 2009 ông Tôn chỉ đề nghị giải quyết tranh chấp QSDĐ giữa gia đình ông với Cửa hàng D4. Gia đình ông T không cung cấp được văn bản hoặc quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về thu hồi diện tích 113,5m2 đất của gia đình ông mà hiện nay Nhà nước sử dụng làm Công viên cây xanh như đã nêu ở trên.

Tại Điều 1 Luật đất đai 1987 quy định: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước thống nhất quản lý”; theo khoản 2 Điều 10 Luật Đất đai 2003; khoản 5 Điều 26 Luật Đất đai năm 2013 quy định: Nhà nước không thừa nhận việc đòi lại đất đã được giao theo quy định của Nhà nước cho người khác sử dụng trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của N3 dân chủ cộng hòa, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền N Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Mặt khác nguyên đơn không có tài liệu chứng cứ nào thể hiện gia đình nguyên đơn đã sinh sống trên đất và được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận có QSDĐ, cũng không có bất kỳ giấy tờ nào quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 50 Luật đất đai năm 2003, không có tên trong sổ mục kê. Việc nguyên đơn đòi lại diện tích đất 113,5m2 hiện đang sử dụng làm Công viên cây xanh là không phù hợp quy định tại Điều 7 Luật Đất đai năm 2003; Điều 13 Luật Đất đai năm 2013. Đối với diện tích 14,8m2 nằm trong tổng diện tích Công ty D3 sử dụng từ năm 1969, đến năm 2007 đã được UBND tỉnh B GCNQSDĐ và cho thuê toàn bộ diện tích 877,3m2 là đúng với quy định tại Điều 51 Luật đất đai năm 2003 và Điều 52 Nghị định 181/ NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính Phủ về thi hành Luật đất đai.

Như vậy yêu cầu khởi kiện của ông T, bà C là không có căn cứ, Tòa án sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc yêu cầu UBND huyện L trả lại diện tích 113,5 m2 và Công ty cổ phần D trả lại diện tích 114,8m2 là đúng pháp luật.

[3]. Xét kháng cáo của bà B, HĐXX thấy: tại cấp phúc thẩm bà B không xuất trình được tài liệu, chứng cứ nào mới chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của ông T, bà C cũng như chứng minh cho kháng cáo của mình. Vì vậy kháng cáo của bà B không được chấp nhận.

[4]. Về án phí dân sự phúc thẩm: căn cứ vào điểm đ khoản 1 Điều 12; Điều 26; khoản 2 Điều 27 và Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án: bà B là người cao tuổi nên được miễn toàn bộ tiền án phí dân sự phúc thẩm.

[5]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 1 Điều 308 và Điều 313 của Bộ Luật tố tụng dân sự. Xử: không chấp nhận kháng cáo của bà Nghiêm Thị Hoài B. Giữ nguyên bản án sơ thẩm số 38/2023/DS-ST ngày 09/8/2023 của Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang.

2. Về án phí: bà Nghiêm Thị Hoài B được miễn toàn bộ tiền án phí dân sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

8
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về kiện đòi tài sản số 37/2024/DS-PT

Số hiệu:37/2024/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bắc Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 22/02/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về