Bản án về kiện đòi tài sản số 14/2024/DS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ QUẾ VÕ, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 14/2024/DS-ST NGÀY 30/01/2024 VỀ KIỆN ĐÒI TÀI SẢN

Ngày 30 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Quế Võ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 24/2023/TLST-DS ngày 17 tháng 10 năm 2023 về việc “Kiện đòi tài sản”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 19/2023/QĐXXST-DS ngày 27 tháng 12 năm 2023, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Đào Xuân Q, sinh năm 1973; HKTT: Tổ 16, thị trấn D, huyện D, thành phố Hà Nội. Vắng mặt.

- Người đại diện theo ủy quyền của ông Q: Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1984; HKTT: thôn Ngọc Chi, xã V, huyện D, thành phố Hà Nội. Có mặt.

- Bị đơn:

1. Ông Nguyễn Thế N, sinh năm 1957. Có mặt.

2. Bà Trần Thị Th, sinh năm 1959. Vắng mặt.

HKTT: khu phố T, phường B, thị xã Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.

(Bà Th ủy quyền cho ông N tham gia tố tụng)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Nguyên đơn là ông Đào Xuân Q và người đại diện theo ủy quyền của ông Q là bà Nguyễn Thị H trình bày:

Do quen biết nên ngày 24/02/2016 ông Q có cho vợ chồng ông Nguyễn Thế N, bà Trần Thị Th vay số tiền 300.000.000 đồng. Ông N, bà Th có đưa cho ông Q 01 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số S659411 do UBND huyện Quế Võ cấp ngày 15/12/2000 cho hộ bà Nghiêm Thị Giơi đối với thửa đất số 01, tờ bản đồ thôn T, xã B, huyện Quế Võ để làm tin. Hai bên có lập “Giấy thế chấp tài sản số 012016” với nội dung ông N, bà Th thế chấp thửa đất và căn nhà nằm trên thửa đất nêu trên cho ông Q để vay số tiền 300.000.000 đồng, thời hạn vay từ ngày 24/02/2016 đến ngày 24/3/2016, hai bên không thỏa thuận lãi suất. Giấy thế chấp nêu trên hai bên không làm thủ tục công chứng, chứng thực theo quy định và cũng không đăng ký tài sản thế chấp tại Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai. Sau đó ông Q đã giao cho ông N, bà Th đủ số tiền 300.000.000 đồng, tuy nhiên khi hết thời hạn vay ông N, bà Th không trả nợ cho ông Q như đã cam kết. Đến nay sau nhiều lần đòi nhưng ông N, bà Th vẫn không chịu trả ông Q bất cứ khoản tiền nào. Việc ông N, bà Th cho rằng trong số 300.000.000 đồng bao gồm 100.000.000 đồng do anh Nguyễn Thế K (là con trai của ông N, bà Th) vay, 100.000.000 đồng là tiền lãi và 100.000.000 đồng ông N, bà Th nhận trực tiếp của ông Q để đi sửa xe là không đúng, vì ông Q chỉ đưa cho ông N, bà Th vay 300.000.000 đồng ngày 24/02/2016, còn không cho anh K vay tiền, và cũng không có việc ông Q đưa cho ông N, bà Th 100.000.000 đồng để sửa xe do làm hỏng xe của anh K.

Nay ông Q yêu cầu ông N, bà Th phải trả lại 300.000.000 đồng tiền nợ gốc. Tại phiên tòa phía nguyên đơn rút yêu cầu buộc ông N, bà Th phải trả tiền lãi từ ngày 24/3/2016 đến nay. Ông Q không yêu cầu gì đối với việc xử lý tài sản thế chấp theo Giấy thế chấp tài sản số 012016. Nay ông N yêu cầu trả lại GCNQSDĐ số S659411 thì phía nguyên đơn cũng đồng ý trả lại.

* Bị đơn là ông Nguyễn Thế N và bà Trần Thị Th trình bày:

Khoảng năm 2015 con trai ông bà là anh Nguyễn Thế K có mang 01 chiếc xe ô tô của gia đình đến gặp ông Đào Xuân Q đặt vấn đề vay ông Q số tiền 100.000.000 đồng, ông Q có yêu cầu anh K để lại xe ô tô để làm tin. Do anh K chưa có tiền trả cho ông Q, nên ông Q đã tính tiền lãi một lần là 70.000.000 đồng, sau đó anh K vẫn tiếp tục chưa trả được nợ nên ông Q lại tính thêm tiền lãi 30.000.000 đồng. Tổng hai lần ông Q tính tiền lãi là 100.000.000 đồng, và bắt anh K viết giấy nhận nợ thêm số tiền 100.000.000 đồng, tổng cộng là 200.000.000 đồng. Trong thời gian anh K để lại xe ô tô chỗ ông Q thì ông Q đã sử dụng gây hỏng hóc xe. Ngày 24/02/2016 ông Q có về gặp ông N, bà Th nói chuyện về việc anh K đang nợ ông Q 200.000.000 đồng (nhưng không đưa cho ông bà xem giấy tờ vay nợ gì), đồng thời nói sẽ cho vợ chồng ông N, bà Th vay thêm số tiền 100.000.000 đồng để sửa xe. Ông N, bà Th đồng ý với ông Q sẽ nhận trách nhiệm thay anh K trả nợ, nên đã nhận 100.000.000 đồng của ông Q cho vay, đồng thời hai bên có làm Giấy thế chấp tài sản với nội dung vợ chồng ông N thế chấp thửa đất và căn nhà trên đất đã được cấp GCNQSDĐ số S659411 do UBND huyện Quế Võ cấp ngày 15/12/2000 để vay số tiền 300.000.000 đồng (bao gồm 100.000.000 đồng do anh K vay, 100.000.000 đồng là tiền lãi và 100.000.000 đồng ông N, bà Th nhận trực tiếp của ông Q để đi sửa xe), thời hạn vay từ ngày 24/02/2016 đến ngày 24/03/2016, không thỏa thuận về tiền lãi, có chữ ký của ông N, bà Th, ông Q và anh K làm chứng. Sau đó, ông N, bà Th đưa cho ông Q GCNQSDĐ số S659411 đứng tên hộ bà Nghiêm Thị Giơi là mẹ của ông N (bà Giơi đã mất từ năm 2003, còn bố ông N là liệt sỹ). Lúc đó, ông N cũng nói với ông Q GCNQSDĐ này không có giá trị gì, nhưng ông Q vẫn đồng ý cầm giấy để làm tin. Hai bên cũng không làm thủ tục đăng ký tài sản thế chấp tại Văn phòng đăng ký đất đai. Ngày 19/4/2016 ông Q có về gặp ông N, bà Th để đòi tiền, nhưng do hai bên không thống nhất được về số tiền sửa xe, và ông N cũng yêu cầu ông Q giải thích việc tính tiền lãi bao nhiêu % mà lên đến 100.000.000 đồng, nhưng ông Q không giải thích được. Sau đó bà Th có viết thêm vào Giấy thế chấp tài sản với nội dung hẹn sẽ trả 300.000.000 đồng trước ngày 30/4/2016.

Tất cả các giấy tờ liên quan đến việc vay tiền giữa anh K với ông Q (bao gồm số tiền vay gốc và số tiền lãi) thì chỉ có ông Q giữ, gia đình ông N không có ai giữ nên không cung cấp được cho Tòa án. Chỉ đến ngày 24/02/2016 ông N, bà Th và ông Q thống nhất chốt lại tổng số nợ bằng Giấy thế chấp tài sản và hiện nay chỉ có 01 giấy này, ngoài ra không còn giấy tờ vay mượn tiền nào khác. Việc vay mượn tiền giữa ông N, bà Th và ông Q không còn liên quan gì đến anh K, và ông N, bà Th cũng không yêu cầu anh K phải có trách nhiệm gì với số tiền này, mọi vấn đề do ông N, bà Th giải quyết với ông Q. Việc anh K đưa xe cho ông Q để làm tin thì cũng không có giấy tờ gì, vì giữa hai bên chỉ tin tưởng nhau.

Nay ông Q khởi kiện yêu cầu ông N, bà Th phải trả số tiền 300.000.000 đồng và tiền lãi thì ông bà không đồng ý. Vì trong số 300.000.000 đồng này thì gồm 100.000.000 đồng tiền lãi và 100.000.000 đồng là tiền ông Q đưa cho ông N, bà Th để đi sửa xe. Giữa hai bên không thỏa thuận gì về lãi nên ông Q không buộc ông N, bà Th trả tiền lãi được.

Đối với GCNQSDĐ số S659411 thì sau khi mẹ ông N mất năm 2003 thì vợ chồng ông đã làm lại GCNQSDĐ đứng tên ông N, bà Th, hiện GCNQSDĐ số S659411 không còn giá trị nhưng ông N vẫn yêu cầu ông Q phải trả lại ông giấy này.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Quế Võ phát biểu ý kiến:

Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng và đầy đủ các quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự trong quá trình giải quyết vụ án. Các đương sự đã tuân thủ đúng quyền và nghĩa vụ của mình. Về quan điểm giải quyết vụ án, đề nghị HĐXX áp dụng Điều 26, 35, 39, 147, 186, 217, 227, 228, 244, 271, 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự; Điều 471, 474, 478 của Bộ luật Dân sự năm 2005; Điều 357, 463, 466, 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Đào Xuân Q: Buộc ông Nguyễn Thế N và bà Trần Thị Th phải trả cho ông Q số tiền là 300.000.000 đồng đã vay.

2. Đình chỉ yêu cầu của ông Q về việc buộc ông N, bà Th phải trả tiền lãi của số tiền 300.000.000 đồng đã vay.

3. Về án phí: Nguyên đơn không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Do bị đơn là người cao tuổi nên miễn án phí dân sự sơ thẩm cho bị đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa; trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện lời trình bày của các đương sự, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1] Về thủ tục tố tụng: Theo đơn khởi kiện ông Đào Xuân Q yêu cầu ông Nguyễn Thế N, bà Trần Thị Th (đều có địa chỉ tại khu phố T, phường B, thị xã Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh) phải trả lại tiền vay gốc và tiền lãi, nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND thị xã Quế Võ.

Do việc vay mượn tiền giữa ông Q với ông N, bà Th được thực hiện từ ngày 24/02/2016 nên cần áp dụng các quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 để giải quyết vụ án.

[2] Ngày 24/02/2016 ông Đào Xuân Q và ông Nguyễn Thế N, bà Trần Thị Th có lập “Giấy thế chấp tài sản số 012016” với nội dung ông N, bà Th thế chấp thửa đất số 01, tờ bản đồ thôn T, xã B, huyện Quế Võ (đã được UBND huyện Quế Võ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số S659411 ngày 15/12/2000 cho hộ bà Nghiêm Thị Giơi) và nhà trên đất cho ông Q để vay số tiền 300.000.000 đồng, thời hạn vay từ ngày 24/02/2016 đến ngày 24/3/2016, hai bên không thỏa thuận lãi suất. Ông N, bà Th cho rằng trong số 300.000.000 đồng tiền vay này bao gồm 100.000.000 đồng do anh K vay, 100.000.000 đồng là tiền lãi và 100.000.000 đồng ông N, bà Th nhận trực tiếp của ông Q để đi sửa xe. Tuy nhiên, phía nguyên đơn không xác nhận nội dung này, mà cho rằng chỉ đưa cho ông N, bà Th vay số tiền 300.000.000 đồng ngày 24/02/2016. Đến nay, ông N, bà Th cũng không đưa ra được chứng cứ gì chứng minh số tiền 300.000.000 đồng nêu trên bao gồm 100.000.000 đồng do anh K vay trước đó, 100.000.000 đồng là tiền lãi và 100.000.000 đồng tiền sửa xe. Mặt khác, ngày 19/4/2016 bà Trần Thị Th còn viết thêm nội dung hẹn đến trước ngày 30/4/2016 sẽ trả cho ông Q số tiền 300.000.000 đồng. Như vậy, có đủ cơ sở để khẳng định ngày 24/02/2016 ông Q có cho ông N, bà Th vay số tiền 300.000.000 đồng, thời hạn vay đến ngày 24/3/2016, tuy nhiên đến nay ông N, bà Th vẫn chưa trả nợ cho ông Q. Do đó, việc ông Q yêu cầu ông N, bà Th phải trả lại 300.000.000 đồng tiền vay là có căn cứ nên được chấp nhận.

[3] Về tiền lãi: Tại phiên tòa phía nguyên đơn rút yêu cầu buộc ông N, bà Th phải trả tiền lãi của số tiền 300.000.000 đồng đã vay từ ngày 24/3/2016 đến nay. Xét thấy việc phía nguyên đơn rút một phần yêu cầu khởi kiện là tự nguyện nên được chấp nhận.

[4] Đối với việc ông N yêu cầu ông Q phải trả lại 01 GCNQSDĐ số S659411 do UBND huyện Quế Võ cấp ngày 15/12/2000 cho hộ bà Nghiêm Thị Giơi. HĐXX thấy rằng ông N, bà Th có đưa cho ông Q 01 GCNQSDĐ nêu trên, và các bên lập Giấy thế chấp tài sản với nội dung ông N, bà Th thế chấp nhà, đất cho ông Q để vay tiền, nhưng hợp đồng không được công chứng, chứng thực và không có đăng ký tài sản bảo đảm tại Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai nên không phát sinh hiệu lực. Mặt khác, phía nguyên đơn cũng không yêu cầu Tòa án xem xét xử lý tài sản bảo đảm. Mặc dù yêu cầu trả lại GCNQSDĐ của ông N đưa ra sau thời điểm Tòa án mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, tuy nhiên tại phiên tòa phía nguyên đơn cũng đồng ý trả lại Giấy chứng nhận cho bị đơn. Do đó, cần công nhận thỏa thuận về việc ông Q trả lại cho ông N 01 GCNQSDĐ số S659411.

[5] Về án phí: Ông Q không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Ông N, bà Th hiện nay đều đã trên 60 tuổi, nên được miễn nộp tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 471, 474, 478 của Bộ luật Dân sự năm 2005; Điều 357, 468 Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 26, 35, 39, 147, 186, 217, 227, 228, 244, 271, 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự; Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội:

1. Ông Nguyễn Thế N, bà Trần Thị Th có nghĩa vụ trả cho ông Đào Xuân Q số tiền đã vay là 300.000.000 đồng (Ba trăm triệu đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự.

2. Đình chỉ yêu cầu của ông Q về việc buộc ông N, bà Th phải trả tiền lãi của số tiền 300.000.000 đồng đã vay từ ngày 24/3/2016 đến nay.

3. Ông Đào Xuân Q phải trả lại ông Nguyễn Thế N 01 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số S659411 do UBND huyện Quế Võ cấp ngày 15/12/2000 cho hộ bà Nghiêm Thị Giơi.

4. Về án phí: Trả lại ông Q 11.600.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu số 0002082 ngày 17/10/2023 của Chi cục THADS thị xã Quế Võ.

Miễn nộp tiền án phí dân sự sơ thẩm cho ông N, bà Th.

Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Đương sự có mặt quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

7
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về kiện đòi tài sản số 14/2024/DS-ST

Số hiệu:14/2024/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quế Võ - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 30/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về