Bản án về kiện đòi tài sản số 03/2023/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BC NINH

BẢN ÁN 03/2023/DS-PT NGÀY 22/11/2023 VỀ KIỆN ĐÒI TÀI SẢN

Ngày 22 tháng 11 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh B xét xử phúc thẩm vụ án thụ lý số: 08/2023/TLPT-DS ngày 17/10/2023 về “Kiện đòi tài sản”. Do bản án dân sự sơ thẩm số: 15/2023/DS-ST ngày 08/9/2023 của Tòa án nhân dân huyện Yên Phong, tỉnh B bị kháng cáo.

Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 02/2023/QĐ-PT ngày 01/11/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh B giữa các đương sự:

- Ngun đơn: Ông Nguyễn Vũ L (tức L1), sinh năm 1950 (có mặt).

Địa chỉ: Thôn P, xã Đ, huyện Y, tỉnh B.

- Bị đơn: Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1953 (có mặt).

Địa chỉ: Thôn P, xã Đ, huyện Y, tỉnh B.

Người kháng cáo: Ông Nguyễn Văn H.

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo bản án sơ thẩm và các tài liệu có trong hồ sơ thì vụ án có nội dung như sau:

Nguyên đơn là ông Nguyễn Vũ L trình bày: Do có quan hệ quen biết nên vào những năm từ 2001 đến năm 2007 khi gia đình ông Nguyễn Văn H là người cùng thôn gặp khó khăn ông H có sang vay tiền ông và ông đồng ý cho ông H vay. Cụ thể, các lần ông cho ông H vay là:

- Ngày 17/12/2001 dương lịch, ông có cho ông H vay số tiền 10.000.000đ. Khi vay có lập thành giấy vay vốn. Tại giấy vay này cả ông và ông H cùng ký vào giấy vay.

- Ngày 29/6/2005 dương lịch, ông cho ông H vay số tiền 10.000.000đ có lập thành giấy vay tiền. Thời hạn vay là 01 tháng và thời hạn trả nợ là ngày 28/7/2005. Cả ông và ông H cùng ký vào giấy vay này.

- Ngày 30/6/2006, ông có cho ông H vay số tiền 31.400.000đ. Khi vay giữa ông và ông H có lập giấy cam kết vay tiền và trả nợ. Thời hạn vay là 06 tháng, thời hạn trả nợ là ngày 30/12/2006. Tại giấy vay này có cả chữ ký của ông H và vợ ông H là bà Ngô Thị T.

- Ngày 30/4/2007 dương lịch, ông có cho ông H vay số tiền 36.000.000đ. Khi vay giữa hai bên cũng lập giấy cam kết vay tiền và trả nợ. Thời hạn trả nợ là ngày 31/12/2007. Khi vay ông H ký vào bên người nhận vay.

Tất cả các lần ông cho ông H vay tiền ông đều lập thành giấy vay tiền hợp pháp. Thời gian trước năm 2010, do gia đình ông H kinh tế khó khăn nên ông cho ông H vay mà không đòi. Đến sau năm 2010, khi kinh tế gia đình ông H phát triển thì ông đã nhiều lần đòi nhưng ông H vẫn khất lần không trả.

Cho đến khoảng tháng 3 năm 2023, ông sang đòi ông H thì ông H bảo: Tôi chẳng nợ gì anh nữa. Vì thế, ông quyết định khởi kiện ra Tòa án.

Nay ông khởi kiện đề nghị Tòa án buộc ông H trả cho ông số tiền gốc là 87.400.000đ, ông không có yêu cầu gì về tiền lãi.

Tại các giấy vay tiền giữa ông và ông H ông nộp cho Tòa án có chữ ký của bà Ngô Thị T là vợ ông H nhưng ông xác định khi ông cho ông H vay ông chỉ giao tiền cho ông H còn bà T chỉ là người ký làm chứng chứ không nhận tiền của ông. Ông không biết số tiền ông H vay ông ông H sử dụng vào mục đích gì nên ông chỉ yêu cầu ông H trả ông tiền chứ ông không có yêu cầu gì đối với bà T.

Bị đơn là ông Nguyễn Văn H trình bày: Trong thời gian từ năm 2001 đến năm 2007, khi đó ông kinh doanh buôn bán nên ông có vay tiền của ông Nguyễn Vũ L. Những lần ông vay tiền của ông L hai bên đều lập thành giấy vay tiền. Cụ thể, các lần ông vay tiền ông L là:

- Ngày 17/12/2001 dương lịch, ông có vay ông L số tiền 10.000.000đ. Khi vay có lập thành giấy vay vốn. Tại giấy vay này ông có ký vào giấy vay.

- Ngày 29/6/2005 dương lịch, ông có vay ông L số tiền 10.000.000d có lập thành giấy vay tiền. Thời hạn vay là 01 tháng và thời hạn trả nợ là ngày 28/7/2005. Ông cũng ký vào giấy vay này.

- Ngày 30/6/2006, ông có vay ông L số tiền 31.400.000đ. Khi vay giữa ông và ông L có lập giấy cam kết vay tiền và trả nợ. Thời hạn vay là 06 tháng, thời hạn trả nợ là ngày 30/12/2006. Tại giấy vay này có cả chữ ký của ông và vợ ông là bà Ngô Thị T.

- Ngày 30/4/2007 dương lịch, ông có vay ông L số tiền 36.000.000đ. Khi vay giữa hai bên cũng lập giấy cam kết vay tiền và trả nợ. Thời hạn trả nợ là ngày 31/12/2007. Khi vay ông ký vào bên người nhận vay.

Tại các lần vay tiền này, sau khi lập thành giấy ông có được ông L giao số tiền vay đầy đủ. Sau khi hết thời hạn vay, ông đều trả số tiền cả gốc và lãi cho ông L mặc dù trong giấy vay không ghi lãi suất nhưng hai bên thỏa thuận lãi suất bên ngoài với nhau. Tuy nhiên, do tin tưởng ông L nên ông đã không yêu cầu ông L đưa lại cho ông các giấy vay tiền.

Ông đã được xem bốn giấy vay tiền giữa ông và ông L. Ông xác nhận ông là người ký dưới các giấy vay. Còn bà T vợ ông cũng ký vào giấy vay do bà T làm chứng cho việc vay tiền của ông nhưng bà T không được cầm tiền hay sử dụng số tiền mà ông vay của ông L. Khi trả tiền, ông đưa tiền mặt cho ông L để trả nhưng ông không đưa ra được căn cứ gì để chứng minh ông đã trả tiền cho ông L. Vì ông đã trả đủ số tiền vay cho ông L nên ông đề nghị Tòa án bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông L.

Từ những nội dung trên bản án sơ thẩm đã căn cứ Điều 166; 274; 275; 280 Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 25; 26; 39; 147; 235; 264; 266 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án, xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Vũ L.

2. Buộc ông Nguyễn Văn H phải có nghĩa vụ trả cho ông Nguyên Vũ L số tiền 87.400.000đ.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về nghĩa vụ thi hành án, án phí và quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật.

Sau khi án sơ thẩm xử, ngày 18/9/2023 bị đơn là ông Nguyễn Văn H có đơn kháng cáo toàn bộ bản án.

Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

Bị đơn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh B tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến về việc tuân thủ pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý phúc thẩm cho đến phần tranh luận tại phiên tòa là đảm bảo theo đúng trình tự, quy định của pháp luật và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự, giữ nguyên bản án sơ thẩm xử.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Sau khi nghiên cứu tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của ông Nguyễn Văn H nộp trong hạn luật định, đã thực hiện đầy đủ thủ tục tố tụng nên được xem xét giải quyết theo trình tự xét xử phúc thẩm.

[2]. Về nội dung: Theo nguyên đơn trình bày từ năm 2001 đến năm 2007 giữa nguyên đơn và ông Nguyễn Văn H có phát sinh việc vay tiền nhau. Cụ thể:

- Ngày 17/12/2001 dương lịch, ông L có cho ông H vay số tiền 10.000.000đ. Khi vay có lập thành giấy vay vốn. Tại giấy vay này cả ông L và ông H cùng ký vào giấy vay.

- Ngày 29/6/2005 dương lịch, ông L cho ông H vay số tiền 10.000.000đ có lập thành giấy vay tiền. Thời hạn vay là 01 tháng và thời hạn trả nợ là ngày 28/7/2005. Cả ông L và ông H cùng ký vào giấy vay này.

- Ngày 30/6/2006, ông L có cho ông H vay số tiền 31.400.000đ. Khi vay giữa ông L và ông H có lập giấy cam kết vay tiền và trả nợ. Thời hạn vay là 06 tháng, thời hạn trả nợ là ngày 30/12/2006. Tại giấy vay này có cả chữ ký của ông H và vợ ông H là bà Ngô Thị T.

- Ngày 30/4/2007 dương lịch, ông L có cho ông H vay số tiền 36.000.000đ. Khi vay giữa hai bên cũng lập giấy cam kết vay tiền và trả nợ. Thời hạn trả nợ là ngày 31/12/2007. Khi vay ông H ký vào bên người nhận vay.

Sau đó, do điều kiện kinh tế gia đình ông H khó khăn nên ông L không đòi. Mãi đến năm 2010, ông L sang đòi ông H nhưng ông H khất lần. Đến năm 2023, ông L tiếp tục sang đòi ông H nhưng ông H nói không nợ nần gì ông L nữa. Do đó, ông L khởi kiện ra Tòa án đề nghị Tòa án buộc ông H trả cho ông số tiền 87.400.000đ, ông không yêu cầu lãi suất. Bản án sơ thẩm xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông L.

Sau khi bản án sơ thẩm xử, ông H kháng cáo toàn bộ bản án. Xét kháng cáo của ông H Hội đồng xét xử thấy: Ông H thừa nhận có vay ông L bốn lần tiền như ông L trình bày và đúng như các giấy vay tiền mà ông L đã nộp cho Tòa án. Ông H cũng thừa nhận tất cả các chữ ký vay tiền trong bốn giấy vay tiền mà ông L nộp cho Tòa án ông được xem đều là chữ ký của ông. Tuy nhiên, ông H cho rằng ông đã trả hết cho ông L tiền nên ông L mới trả cho ông giấy tờ đất nhưng ông H không đưa ra được căn cứ nào chứng minh đã trả cho ông L số tiền này còn ông L đã nộp cho Tòa án bốn bản gốc giấy vay tiền có chừ ký của ông H. Như vậy, có đủ căn cứ để xác định ông H đã vay ông L bốn lần tiền từ năm 2001 đến năm 2007 và đến nay vẫn chưa trả ông L. Do đó, bản án sơ thẩm xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông L là có cơ sở và đúng quy định của pháp luật.

Từ những phân tích trên có thể thấy ông H kháng cáo nhưng không đưa ra được tài liệu nào chứng minh kháng cáo của mình là có căn cứ nên cần bác toàn bộ kháng cáo của ông H.

Do ông H là người cao tuổi nên ông H không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự giữ nguyên bản án sơ thẩm xử.

Căn cứ Điều 166; 274; 275; 280 Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 25; 26; 39; 147; 235; 264; 266 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án, xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Vũ L.

2. Buộc ông Nguyễn Văn H phải có nghĩa vụ trả cho ông Nguyễn Vũ L số tiền 87.400.000đ (Tám mươi bảy triệu bốn trăm nghìn đồng).

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bên phải thi hành án không thi hành thì hàng tháng phải chịu một khoản lãi của số tiền chậm trả thi hành án theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự tương ứng với thời gian chậm thi hành án.

2. Về án phí: Miễn toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm và án phí dân sự phúc thẩm cho ông Nguyễn Văn H.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

13
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về kiện đòi tài sản số 03/2023/DS-PT

Số hiệu:03/2023/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 22/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về