Bản án về kiện đòi tài sản là quyền sử dụng đất số 591/2023/DS-PT

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 591/2023/DS-PT NGÀY 05/12/2023 VỀ KIỆN ĐÒI TÀI SẢN LÀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Ngày 07/12/2023, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 379/2023/TLPT - DS ngày 20/10/2023 về: “Kiện đòi tài sản là quyền sử dụng đất; quyền sử dụng ngõ đi chung và tháo dỡ tài sản trên ngõ đi chung.”.

Do bản án dân sự sơ thẩm số 14/2023/DS-ST ngày 25/8/2023 của Toà án nhân dân huyện Đ, thành phố Hà Nội bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 508/2023/QĐ-PT ngày 03/11/2023; Quyết định hoãn phiên tòa số 511/QĐPT-HPT ngày 22/11/2023 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn:

1.1. Ông Nguyễn Văn Th; sinh năm: 1964; địa chỉ: Tổ dân phố số 4 P, phường MII, quận Nam Từ Liêm, Thành phố Hà Nội; có mặt

1. 2. Bà Nguyễn Thị Thanh Th; sinh năm: 1971; địa chỉ: Tổ 13, phường D, quận B, Thành phố Hà Nội; có mặt.

1.3. Anh Lê Văn D; sinh năm: 1989; vắng mặt.

1.4. Chị Lê T2 Q; sinh năm: 1995; vắng mặt.

Anh D, chị Q có địa chỉ: Tổ dân phố số 5, phường D, quận B, Thành phố Hà Nội.

Người đại diện theo ủy quyền của anh Lê Văn D, chị Lê T2 Q là ông Nguyễn Văn Th, sinh năm 1964 và bà Nguyễn Thị Thanh Th, sinh năm 1971 (Theo giấy ủy quyền ngày 21/02/2023). Ông Th, bà Th đều có mặt.

2. Bị đơn: Ông Trần Văn L (tức Trần Thanh L); sinh năm: 1964; địa chỉ: Số nhà 46, cụm 8, xã Th, huyện Đ, Thành phố Hà Nội; có mặt

 3. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

3.1. Bà Trần Thị L; sinh năm: 1971; địa chỉ: Số nhà 46, cụm 8, xã Th, huyện Đ, thành phố Hà Nội; có mặt.

3.2. Ông Lê Duy Q1; sinh năm: 1959; có mặt.

3.3. Bà Chu Thị Nh; sinh năm: 1964; có mặt.

Bà L, ông Q1, bà Nh đều cùng địa chỉ: Số nhà 69, tổ 4, đường V, phường D, quận B, Thành phố Hà Nội.

3.4. Ông Trần Văn L1; sinh năm: 1967; có mặt.

3.5. Bà Trần Thị C1; sinh năm: 1973; có mặt.

Ông L1, bà Chầu đều cùng địa chỉ: Số nhà 268, đường 417, xóm Mới, xã Th, huyện Đ, Thành phố Hà Nội.

4. Kháng cáo, kháng nghị: Do có kháng cáo của ông Trần Văn L là bị đơn và ông Trần Văn L1 là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan kháng cáo trong vụ án.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo án sơ thẩm vụ án có nội dung như sau:

* Theo đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn ông Nguyễn Văn Th và bà Nguyễn Thị Thanh Th trình bày: Ngày 30/5/2021, vợ chồng ông bà và vợ chồng ông bà Lê Văn D, Lê T2 Q lập hợp đồng nhận chuyển nhượng đất với vợ chồng ông bà Đỗ Quốc S, Hoàng Kim T2. Theo hợp đồng, ông S, bà T2 chuyển nhượng cho các ông bà thửa đất số 509 + 605, tờ bản đồ số 11; địa chỉ: Cụm 8, xã Th, huyện Đ, thành phố Hà Nội được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Đỗ Quốc S, bà Hoàng Kim T2 ngày 20/02/2019. Ngày 06/7/2021, thửa đất được đăng ký biến động mang tên ông Nguyễn Văn Th, bà Nguyễn Thị Thanh Th, ông Lê Văn D, bà Lê T2 Q. Thửa đất số 509 giáp với thửa đất số 508 của ông Trần Văn L; tài sản trên thửa đất số 509, gồm: Cây nhãn, tường bao ngăn đất với hộ liền kề đều có sẵn trước khi các ông bà nhận chuyển nhượng đất. Thửa đất số 605 là ngõ đi chung, ông L đang quản lý và làm 01 nhà tạm để nguyên vật liệu có diện tích khoảng 2m2.

Ngày 02/6/2021, vợ chồng ông bà và vợ chồng ông bà Lê Văn D, Lê T2 Q tiếp tục lập hợp đồng nhận chuyển nhượng đất với vợ chồng ông bà Đỗ Quốc S, Hoàng Kim T2. Theo hợp đồng, ông S, bà T2 chuyển nhượng cho các ông bà thửa đất số 507 + 605, tờ bản đồ số 11; địa chỉ: Cụm 8, xã Th, huyện Đ, thành phố Hà Nội được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 05/11/2019 cho ông Đỗ Quốc S, bà Hoàng Kim T2. Ngày 06/7/2021, thửa đất được đăng ký biến động mang tên ông Nguyễn Văn Th, bà Nguyễn Thị Thanh Th, ông Lê Văn D, bà Lê T2 Q. Thửa đất số 507 giáp với thửa đất số 508 của ông Trần Văn L, trên thửa đất có sẵn tường bao, sân, cây, gờ tường ngăn với các thửa đất số 605, 508 đều có trước thời điểm các ông bà nhận chuyển nhượng đất. Thửa đất số 605 là ngõ đi chung như trình bày trên.

Trước khi các ông bà nhận chuyển nhượng thửa đất 507, 509 được biết ngõ đi chung là thửa đất 605 đã được ghi trên sơ đồ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của các thửa đất số 504, 505, 506, 507, 508, 509; chiều rộng 3m, chiều dài 1 cạnh 31,87m, chiều dài 01 cạnh 31,78m. Ngõ đi chung được láng bê tông, lối vào của ngõ được xây trụ cổng cao 3m; gờ tường bao ngăn ngõ đi chung với các thửa đất 507, 508, 509 cao 70cm, cạnh đối diện ngõ đi chung được xây tường bao cao khoảng 2,5m ngăn ngõ đi chung với các thửa đất 504, 505, 506 đều xây dựng trước thời điểm các ông bà nhận chuyển nhượng thửa đất số 507, 509. Khi nhận chuyển nhượng đất, các ông bà xuống kiểm tra hiện trạng các thửa đất thì không phát sinh tranh chấp, không bị các hộ có đất liền kề ngăn cản. Chỉ khi các ông bà có nhu cầu sử dụng đất thì ông L ngăn cản không cho vào thửa đất. Hiện tại, các nguyên đơn chưa xây dựng tài sản gì trên thửa đất số 507, 509.

Tại đơn khởi kiện ngày 13/02/2023, nguyên đơn khởi kiện buộc ông L: Trả quyền sử dụng đất, tháo dỡ toàn bộ tài sản xây dựng trên thửa đất số 507; dỡ bỏ cổng xây trên ngõ đi chung của thửa đất số 605; trả lại nguyên trạng thửa đất và phần ngõ đi chung của các thửa đất số 504, 505, 506, 507, 508, 509. Ngày 20/7/2023, nguyên đơn sửa đổi bổ sung đơn khởi kiện ông L: Trả lại quyền sử dụng thửa đất số 507, 509; yêu cầu ông L, ông L1, bà C1 không được khóa cổng ngăn cản nguyên đơn đi vào ngõ đi chung; ông L1, bà C1 tháo dỡ nhà tạm cuối thửa đất 605, không ngăn cản quyền sử dụng lối đi của thửa đất 509. Ngoài ra các nguyên đơn không có yêu cầu đề nghị gì khác.

* Quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án nguyên đơn bà Lê T2 Q, ông Lê Văn D trình bày: Ông bà và ông Th, bà Th nhận chuyển nhượng quyền sử dụng các thửa đất số 507, 509 đều có lối đi chung là thửa đất số 605, tờ bản đồ số 11;

địa chỉ: Cụm 8, xã Th, huyện Đ, thành phố Hà Nội. Các thửa đất đều được đăng ký biến động mang tên Nguyễn Văn Th, Nguyễn Thị Th, Lê Văn D, Lê T2 Q. Do điều kiện công việc ông bà không tham gia tố tụng tại Tòa án được ông bà ủy quyền cho nguyên đơn ông Nguyễn Văn Th, bà Nguyễn Thị Thanh Th thay mặt ông bà tham gia tố tụng tại Tòa án và toàn quyền quyết định giải quyết vụ án cho đến khi kết thúc.

* Bị đơn ông Trần Văn L (Trần Thanh L) trình bày:

Nguồn gốc thửa đất số 507, 509 là của con trai ông là Trần Thanh T3 nhận chuyển nhượng thửa đất của vợ chồng anh trai ông là Trần Thanh H2, bà Chinh. Toàn bộ tài sản trên thửa đất số 507 do ông xây dựng vào năm 2016. Trên thửa đất số 509 ông H2 trồng nhãn hiện nay thì ông đang thu hoạch. Thửa đất số 605 là ngõ đi chung; tài sản trên đất do 4 anh em ông là Trần Tiến Tr, Trần Văn L1, Trần Thanh H2 và ông xây dựng năm 2012, gồm: Trụ cổng, cánh cổng khóa, chìa khóa được đánh cho 4 anh em ông để sử dụng; cuối ngõ đi ông L1, bà C1 làm 01 nhà tạm mái tôn. Hiện nay, ông và vợ là Trần Thị L đang sinh sống tại thửa đất số 508 và quản lý các thửa đất số 507, 509 và thu hoạch hoa màu trên đất.

Nay nguyên đơn khởi kiện ông trả lại quyền sử dụng đất thửa số 507, 509 và tháo dỡ tài sản xây dựng trên ngõ đi chung là thửa đất số 605 để nguyên đơn cũng như các hộ có ngõ đi chung được sử dụng thì ông không đồng ý. Sân, tường bao trên thửa đất 507, gờ tường của thửa đất số 507, 509 được ông xây dựng năm 2016 không trái phép. Ông thu hoạch hoa màu trên thửa đất 509 từ năm 2012 đến nay không ai có ý kiến gì. Ông, ông Tr, ông H2, ông L1 xây dựng cổng và lối đi láng bê tông trên thửa đất số 605 nên một mình ông không mở cửa cho các hộ đi vào; nhà tạm do ông C1, bà L1 làm. Hiện tại, anh T3 không thực hiện giao dịch gì liên quan đến các thửa đất này.

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Trần Văn L1, bà Trần Thị C1 trình bày trình bày:

Nguồn gốc thửa đất số 504, 505, 506, 507, 508, 509 và 605 là của cha ông để lại cho ông Trần Văn L1, Trần Thanh H2, ông Trần Tiến Tr, ông Trần Văn L; trong đó, thửa đất số 605 là ngõ đi chung của 06 thửa đất trên. Các thửa đất số 507, 509 là của ông H2. Toàn bộ cây trên thửa đất 507, 509 do ông H2 trồng còn ông L xây dựng tài sản trên đất. Sau đó, ông H2 cùng vợ chuyển nhượng thửa đất 507 + 605, 509 + 605 cho anh Trần Thanh T3 là con trai ông L. Thửa đất số 605 là ngõ đi chung do 4 anh em ông được bố mẹ cho đất xây dựng. Nay nguyên đơn khởi kiện ông L phải trả lại thửa đất số 507, 509; ông L, ông bà tháo dỡ tài sản trên thửa đất số 605 thì ông bà không đồng ý. Vì các thửa đất này là của gia đình ông bà, ai muốn đi vào thửa đất phải được sự đồng ý của các ông L1, Tr, H2, L.

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Trần Thị L trình bày: Bà là vợ của ông L. Về nguồn gốc và quá trình sử dụng các thửa đất số 504, 505, 506, 507, 508, 509 và 605 thì bà nhất trí với lời trình bày của ông L, ông L1, bà C1 nêu trên. Khoảng năm 2018- 2019, ông H2 chuyển nhượng thửa đất trên cho anh T3 là con trai của bà và ông L. Sau đó, anh Đ2 là con trai của ông Tr nhờ anh T3 ký giấy vay tiền và giữa các bên có thực hiện thủ tục gì thì bà không rõ. Nay nguyên đơn khởi kiện thì bà nhất trí quan điểm của ông L, ông L1, bà C1 và không bổ sung ý kiến gì khác.

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Chu Thị Nh và ông Lê Duy Q1 đều trình bày: Ông bà là chủ sử dụng thửa đất số 505 + 605, diện tích 261,6m2, tờ bản đồ số 11; địa chỉ: Cụm 8, xã Th, huyện Đ, thành phố Hà Nội. Nguồn gốc thửa đất 505 + 605 được cấp giấy cho ông Trần Tiến Tr sau đó ông Tr chuyển nhượng đất cho ông Vương Hoàng Sơn, bà Vương Thị Thanh và ông Sơn, bà Thanh chuyển nhượng lại cho ông bà. Thửa đất số 605 là ngõ đi chung như các đương sự trong vụ án đã trình bày. Quá trình nhận chuyển nhượng đất đến nay thì ông bà chưa sử dụng cũng như xây dựng tài sản trên đất. Nay nguyên đơn khởi kiện ông L thì quan điểm của ông bà nhất trí với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Tại phiên tòa nguyên đơn ông Nguyễn Văn Th, bà Nguyễn Thị Thanh Th đồng thời là người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn bà Lê T2 Q, ông Lê Văn D giữ nguyên quan điểm đã trình bày và yêu cầu: Ông L trả lại nguyên đơn quyền sử dụng thửa đất số 507, 509; yêu cầu ông L, ông L1, bà C1 không được khóa cổng ngăn cản nguyên đơn đi vào ngõ đi chung; ông L1, bà C1 tháo dỡ nhà tạm cuối thửa đất 605, không ngăn cản quyền sử dụng lối đi của thửa đất 509. Ngoài ra, các nguyên đơn không có yêu cầu gì khác.

Ông Trần Văn L, bà Trần Thị L, ông Trần Văn L1, bà Trần Thị C1 khẳng định thửa đất số 507 + 605, 509 + 605 là của anh Trần Thanh T3 là con trai của ông L. Hiện nay, ông L, bà L đang sinh sống tại thửa đất số 508 còn các thửa đất 504, 505, 506 của gia đình ông bà chỉ trồng cây và chưa xây dựng nhà cửa trên đất. Anh T3 chưa chuyển nhượng thửa đất 507 + 605, 509 + 605 cho ai.

Ông L vẫn đang quản lý các thửa đất của anh T3. Riêng về lối đi chung thì các anh em trong gia đình đã thỏa thuận để ông L1, bà C1 làm nhà cuối ngõ đi chung. Các ông bà không xuất trình được tài liệu chứng cứ gì liên quan đến phần trình bày trên.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 14/2023/DS-ST ngày 25/8/2023 của Tòa án nhân dân huyện Đ, thành phố Hà Nội đã quyết định:

1. Xác định ông Nguyễn Văn Th, bà Nguyễn Thị Thanh Th, bà Lê T2 Q, ông Lê Văn D là chủ sử dụng hợp pháp các thửa đất số 507 + 605, 509 + 605, tờ bản đồ số 11; địa chỉ thửa đất: Cụm 8, xã Th, huyện Đ, thành phố Hà Nội.

Buộc ông Trần Văn L cùng bà Trần Thị L trả lại ông Nguyễn Văn Th, bà Nguyễn Thị Thanh Th, bà Lê T2 Q, ông Lê Văn D quyền sử dụng đất và các tài sản gắn liền trên các thửa đất số 507 + 605, 509 + 605, tờ bản đồ số 11; địa chỉ thửa đất: Cụm 8, xã Th, huyện Đ, thành phố Hà Nội.

2. Xác định thửa đất thửa số 605, tờ bản đồ số 11; địa chỉ thửa đất: Cụm 8, xã Th, huyện Đ, thành phố Hà Nội là ngõ đi chung của các thửa đất số 504, 505, 506, 507, 508, 509, tờ bản đồ số 11; địa chỉ thửa đất: Cụm 8, xã Th, huyện Đ, thành phố Hà Nội. Vị trí ngõ đi chung tiếp giáp như sau:

Cạnh đất phía Bắc giáp thửa số 504, 505, 506. Cạnh đất phía Nam giáp thửa số 507, 508, 509. Cạnh đất phía Đông giáp đường giao thông.

Cạnh đất phía Tây giáp thửa số 8 (đất của gia đình ông P). (Có sơ đồ ngõ đi chung kèm theo) 2.1. Buộc ông Trần Văn L và những người sử dụng đất liên quan đến các thửa 504, 505, 506, 508 phải dành ngõ (lối) đi vào thửa đất số 605, tờ bản đồ số 11; địa chỉ thửa đất: Cụm 8, xã Th, huyện Đ, thành phố Hà Nội cho ông Nguyễn Văn Th, bà Nguyễn Thị Thanh Th, bà Lê T2 Q, ông Lê Văn D. Những người sử dụng thửa đất số 605 không phải thanh toán chi phí cho nhau.

2.2. Buộc ông Trần Văn L, ông Trần Văn L1, bà Trần Thị C1 và người sử dụng đất liên quan phải tháo dỡ, di rời các tài sản trên ngõ đi chung gây cản trở cho người sử dụng đất liên quan đến ngõ đi chung.

Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.

Không nhất trí với quyết định của bản án sơ thẩm Ngày 08/9/2023, bị đơn ông Trần Văn L kháng cáo đối với bản án sơ thẩm đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét hủy bản án dân sự sơ thẩm số 14/2023/DS-ST ngày 25/8/2023 bác bỏ toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Ngày 08/9/2023, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần Văn L1 kháng cáo đối với bản án sơ thẩm đề nghị Hội đồng xet xử phúc thẩm xem xét hủy bản án dân sự sơ thẩm số 14/2023/DS-ST ngày 25/8/2023 bác bỏ toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Tại phiên tòa:

Nguyên đơn ông Nguyễn Văn Th trình bày ông vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Trần Văn L và ông Trần Văn L1; ông Th đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 14/2023/DS-ST ngày 25/8/2023.

Nguyên đơn bà Nguyễn Thị Thanh Th trình bày thống nhất với lời trình bày của ông Th.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Lê Duy Q1 và bà Chu Thị Nh trình bày thống nhất với lời trình bày của ông Th.

Bị đơn ông Trần Văn L (Trần Thanh L) trình bày ông không nhất trí với yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn và ông vẫn giữ nguyên các yêu cầu kháng cáo; ông L đề nghị Hội đồng xét xử xem xét hủy bản án dân sự sơ thẩm số 14/2023/DS-ST ngày 25/8/2023 bác bỏ toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Trần Thị L trình bày thống nhất với lời trình bày của ông L.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần Văn L1 trình bày vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo; ông L1 đề nghị Hội đồng xét xử xem xét hủy bản án dân sự sơ thẩm số 14/2023/DS-ST ngày 25/8/2023 bác bỏ toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Trần Thị C1 trình bày thống nhất với lời trình bày của ông L1.

Quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội:

Về tố tụng: Hội đồng xét xử và các đương sự tuân thủ đầy đủ các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung: Sau khi phân tích nội dung vụ kiện, đại diện Viện kiểm nhân dân Thành phố Hà Nội đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự tuyên sửa bản án dân sự sơ thẩm số 14/2023/DS-ST ngày 25/8/2023 của Tòa án nhân dân huyện Đ, thành phố Hà Nội.

NHN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa xét thấy:

[1]. Về tố tụng:

Về thẩm quyền: Ông Nguyễn Văn Th, bà Nguyễn Thị Thanh Th, bà Lê T2 Q, ông Lê Văn D khởi kiện ông Trần Văn L trả lại tài sản là quyền sử dụng đất thửa số 507, 509 và yêu cầu bị đơn cũng như người liên quan sử dụng thửa đất số 605 không ngăn cản quyền của nguyên đơn sử dụng ngõ đi chung. Các thửa đất số 507 + 605, 509 + 605 đều thuộc tờ bản đồ số 11; địa chỉ thửa đất:

Cụm 8, xã Th, huyện Đ, Thành phố Hà Nội. Đây là vụ án dân sự kiện đòi tài sản là quyền sử dụng đất, quyền sử dụng lối đi chung và tháo dỡ tài sản trên ngõ (lối) đi chung được quy định tại các Điều 26, 35, 39 Bộ luật Tố tụng dân sự. Tòa án nhân dân huyện Đ thụ giải quyết sơ thẩm vụ án là có căn cứ.

Về việc đưa anh Trần Thanh T3 và ông Nguyễn Quốc S vào tham gia tố tụng. Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án cấp sơ thẩm đã lấy lời khai anh T3, anh T3 cũng như các đương sự khác không có tranh chấp, yêu cầu gì về việc chuyển nhượng đất với ông S, bà T2 nên việc đưa những người này vào tham gia tố tụng trong vụ án là không cần thiết.

Về việc xem xét quan hệ vay tiền giữa anh Trần Thanh T3 và ông Nguyễn Quốc S, bà T2: Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án cấp sơ thẩm đã lấy lời khai ông L, anh T3 và cả anh Đ2 đều khẳng định việc anh T3 ký hợp đồng chuyển nhượng đất với ông S, bà T2 là do anh Đ2 vay tiền của ông S, bà T2. Tuy nhiên, các đương sự không cung cấp tài liệu gì chứng minh về việc vay tiền này, cũng không có yêu cầu Tòa án xem xét việc vay tiền trong vụ án này. Mặt khác, anh T3 cũng có lời khai khẳng định đối với việc anh cho anh Đ2 mượn tài sản và ký hợp đồng vay tiền với ông S thì anh và các bên sẽ tự thỏa thuận. Nếu không thỏa thuận được thì anh sẽ khởi kiện anh Đ2, ông S bằng một vụ án khác. Nay ông L kháng cáo đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm làm rõ quan hệ vay tiền giữa anh T3 với ông S là không thuộc phạm vi xét xử phúc thẩm.

[2] . Về hình thức: Đơn kháng cáo của bị đơn ông Trần Văn L và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần Văn L1 nộp trong hạn luật định, đã nộp dự phí kháng cáo, về hình thức là hợp lệ.

[3]. Về nội dung:

3.1. Xét kháng xáo của bị đơn ông Trần Văn L (Trần Thanh L) Về nguồn gốc các thửa đất có tranh chấp: 07 thửa đất số 504, 505, 506, 507, 508, 509, 605 tờ bản đồ số 11 tại cụm 8, xã Th, huyện Đ, Thành phố Hà Nội có nguồn gốc là của cụ S1, cụ Đ3 là bố mẹ ông Trần văn L - bị đơn để lại. Hai cụ đã phân chia cho các con gồm ông Trần Thanh H2, Trần Tiến Tr, Trần Văn L1, Trần Văn L, trong đó thửa đất số 605 là ngõ đi chung của 06 thửa đất còn lại. Đến nay, các ông đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; không ai có tranh chấp, yêu cầu gì về sự phân chia này.

Về yêu cầu đòi quyền sử dụng đất của các nguyên đơn: Thửa đất 507 + 605, 509 + 605 được phân chia cho ông Trần Thanh H2. Ông H2 chuyển nhượng lại cho anh Trần Thanh T3. Ngày 05/11/2019, anh T3 chuyển nhượng cho ông Nguyễn Quốc S và vợ là bà Hoàng Kim T2. Ngày 30/5 và 02/6/2021, ông S, bà T2 đã chuyển nhượng thửa số 507 + 605, 509 + 605 cho ông Th và vợ là bà Th, anh D và vợ là chị Q. Đến ngày 06/7/2021, các thửa đất này đã được đăng ký biến động sang tên ông Th, bà Th, anh D, chị Q. Các đương sự không có tranh chấp, yêu cầu gì về việc chuyển nhượng đất giữa ông H2 và anh T3; giữa anh T3 và ông S, bà T2 và giữa ông S, bà T2 với các đồng nguyên đơn; không yêu cầu hủy các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp đối với các thửa đất đang có tranh chấp. Tại cấp sơ thẩm, ông Trần Văn L có lời khai cho rằng việc anh T3 chuyển nhượng đất cho ông S, bà T2 chỉ nhằm mục đích đảm bảo cho khoản vay của anh Đ2 (con ông Tr). Tuy nhiên, bản thân anh Trần Thanh T3 khẳng định việc chuyển nhượng đất của anh cho ông S, bà T2 là hoàn toàn tự nguyện, không bị ép buộc. Anh không có yêu cầu gì về việc chuyển nhượng đất này.

Đối với tài sản trên các thửa đất số 507, 509 được thể hiện qua biên bản xem xét thẩm định, biên bản ghi lời khai của ông H2, ông L, ông L1, bà C1, bà L, ông Tr, anh T3 tại cấp sơ thẩm có căn cứ xác định: Toàn bộ tài sản trên các thửa đất số 507, 509 có từ thời điểm anh T3 nhận chuyển nhượng đất với ông H2. Như vậy, kể từ ngày 05/11/2019 các thửa đất số 507 + 605, 509 + 605 được đăng ký biến động chủ sử dụng mới nên anh Trần Thanh T3 không còn là chủ sử dụng hợp pháp các thửa đất số 507, 509 cùng tài sản trên đất như phía bị đơn cũng như bà L, ông L1, bà C1 trình bày.

Về ngõ đi chung của các thửa đất thửa đất số 504, 505, 506, 507, 508, 509, 605 tờ bản đồ số 11 tại cụm 8, xã Th, huyện Đ, Thành phố Hà Nội: Trong hồ sơ vụ án thể hiện các anh em ông Trần Văn L đều thống nhất xác định thửa đất 605 là ngõ đi chung của các thửa đất còn lại. Lời khai này phù hợp với các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp đối với các thửa đất, phù hợp với nội dung do Văn phòng đăng ký đất đai Hà Nội – chi nhánh huyện Đ cung cấp và kết quả xác minh tại UBND xã Th. Cụ thể, anh T3 đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa số 507, 509 và 605, tại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có sơ đồ và phần ghi chú xác định thửa đất số 605 là ngõ đi chung của các thửa đất số 504, 505, 506, 507, 508, 509 tờ bản đồ số 11 tại cụm 8, xã Th, huyện Đ, Thành phố Hà Nội.

Nay ông L quản lý, sử dụng thửa đất số 507, 509 và ngăn cản không cho các đồng nguyên đơn thực hiện các quyền của chủ sử dụng hợp pháp đối với diện tích đất tranh chấp tại thửa số 507, 509; quyền sử dụng ngõ đi chung là thửa số 605. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn buộc ông Trần Văn L trả lại quyền sử dụng thửa đất số 507, 509 và quyền sử dụng ngõ đi chung cho các nguyên đơn là có cơ sở. Do anh T3 đã nhận chuyển nhượng và được cấp giấy chứng nhận đối với thửa đất số 507 + 605 và 509 + 605 nên việc anh T3 chuyển nhượng các thửa đất này là có căn cứ quy định tại Điều 188 Luật đất đai 2013. Ông L1, ông L không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn vì cho rằng việc anh T3 chuyển nhượng đất, bao gồm cả phần ngõ đi chung phải có sự đồng ý của anh em ông là không có cơ sở.

Về yêu cầu tháo dỡ tài sản xây dựng trên ngõ đi chung: tài sản trên ngõ đi chung của thửa đất số 605 gồm gờ tường bao, tường bao, cổng là do ông Tr, H2, L1, L xây dựng; không ảnh hưởng đến việc sử dụng ngõ đi chung. Riêng ngôi nhà tạm mái tôn ở vị trí cuối thửa đất số 605, giáp (trước) thửa số 509 do ông L1, bà C1 làm đã chắn lối đi, ngăn cản quyền sử dụng lối đi chung vào thửa đất số 509 của các đồng nguyên đơn. Do đó, bản án sơ thẩm buộc ông L và các chủ sử dụng đất liên quan tháo dỡ, di dời tài sản trên ngõ đi chung gây cản trở cho người sử dụng đất liên quan đến ngõ đi chung là có căn cứ.

Từ những phân tích trên Hội đồng xét xử xét thấy bị đơn kháng cáo không đưa ra được tài liệu chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu kháng cáo của mình nên không được chấp nhận.

3.2. Xét kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần Văn L1.

Như đã phân tích tại phần 3.2 Hội đồng xét xử xét thấy người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan kháng cáo không đưa ra được tài liệu chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu kháng cáo của mình nên không được chấp nhận.

Do án sơ thẩm tuyên án chưa rõ ràng nên Hội đồng xét xử xem xét sửa bản án sơ thẩm về cách tuyên án.

Quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội có phần phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

4. Về án phí:

4.1. Án phí dân sự sơ thẩm:

Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên nguyên đơn không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

Ông Trần Văn L (Trần Thanh L) phải chịu án phí dân sự theo quy định.

4.2. Án phí dân sự phúc thẩm: Do sửa án sơ thẩm nên các đương sự không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

QUYẾT ĐỊNH

n cứ vào:

- Khoản 1 Điều 147; Điều 184; Khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

- Điều 254 Bộ luật Dân sự.

- Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội qui định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Sửa bản án sơ thẩm số 14/2023/DS-ST ngày 25/8/2023 của Tòa án nhân dân huyện Hoài Đức, Thành phố Hà Nội. Cụ thể:

1.1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn Th, bà Nguyễn Thị Thanh Th, bà Lê T2 Q, ông Lê Văn D về việc kiện đòi tài sản là quyền sử dụng đất, quyền sử dụng ngõ (lối) đi chung và tháo dỡ tài sản xây dựng trên ngõ (lối) đi chung.

Buộc ông Trần Văn L (Trần Thanh L) cùng bà Trần Thị L trả lại ông Nguyễn Văn Th, bà Nguyễn Thị Thanh Th, bà Lê T2 Q, ông Lê Văn D quyền sử dụng đất và các tài sản gắn liền trên các thửa đất số 507 + 605, 509 + 605, tờ bản đồ số 11; địa chỉ thửa đất: Cụm 8, xã Th, huyện Đ, Thành phố Hà Nội. Các thửa đất này đã được Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác trên đất số DC 660371 ngày 06/7/2021 và số DC 660369 ngày 06/7/2021 mang tên ông Nguyễn Văn Th, bà Nguyễn Thị Thanh Th cùng sử dụng đất với ông Lê Văn D và bà Lê T2 Q.

1. 2. Xác định thửa đất thửa số 605, tờ bản đồ số 11; địa chỉ thửa đất: Cụm 8, xã Th, huyện Đ, Thành phố Hà Nội có diện tích 93,9 m2 là ngõ đi chung của những người được quyền quản lý, sử dụng hợp pháp các thửa đất số 504, 505, 506, 507, 508, 509, tờ bản đồ số 11; địa chỉ thửa đất: Cụm 8, xã Th, huyện Đ, Thành phố Hà Nội. Vị trí ngõ đi chung tiếp giáp như sau (Có sơ đồ ngõ đi chung kèm theo):

Cạnh đất phía Bắc giáp thửa đất số 504, 505, 506. Cạnh đất phía Nam giáp thửa số 507, 508, 509. Cạnh đất phía Đông giáp đường giao thông.

Cạnh đất phía Tây giáp thửa số 8 (đất của gia đình ông P).

1.2.1. Buộc ông Trần Văn L (Trần Thanh L) và những người sử dụng đất liên quan đến các thửa 504, 505, 506, 508 phải dành ngõ (lối) đi vào thửa đất số 605, tờ bản đồ số 11; địa chỉ thửa đất: Cụm 8, xã Th, huyện Đ, thành phố Hà Nội cho ông Nguyễn Văn Th, bà Nguyễn Thị Thanh Th, bà Lê T2 Q, ông Lê Văn D. Những người sử dụng thửa đất số 605 không phải thanh toán chi phí cho nhau.

1.2.2. Buộc ông Trần Văn L (Trần Thanh L), ông Trần Văn L1, bà Trần Thị C1 và người sử dụng đất liên quan phải tháo dỡ, di rời các tài sản trên ngõ đi chung gây cản trở cho người sử dụng đất liên quan đến ngõ đi chung.

2. Về án phí:

2.1. Án phí dân sự sơ thẩm:

Ông Trần Văn L (Trần Thanh L) phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Trả lại ông Nguyễn Văn Th, bà Nguyễn Thị Thanh Th số tiền 5.000.000đ (Năm triệu đồng) tạm ứng án phí dân sự theo biên lai thu số AA/2020/ 0003039 ngày 21/02/2023 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Đ.

Trả lại ông Lê Văn D, bà Lê T2 Q số tiền 5.000.000đ (Năm triệu đồng) tạm ứng án phí dân sự theo biên lai thu số AA/2020/ 0003040 ngày 21/02/2023 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Đ.

2.2. Án phí dân sự phúc thẩm:

Các Đương sự không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

Hoàn trả ông Trần Văn L1 số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí dân sự theo biên lai thu số AA/2020/ 0003276 ngày 08/9/2023 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Đ.

Về số tiền án phí của ông Trần Văn L (Trần Thanh L) phải nộp được trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng đã dân sự theo biên lai thu số AA/2020/ 0003277 ngày 08/09/2023 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Đ; ông L không phải nộp thêm khoản tiền án phí nào khác.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

29
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về kiện đòi tài sản là quyền sử dụng đất số 591/2023/DS-PT

Số hiệu:591/2023/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 05/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về