Bản án về kiện đòi tài sản là quyền sử dụng đất số 45/2023/DS-PT

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 45/2023/DS-PT NGÀY 29/05/2023 VỀ KIỆN ĐÒI TÀI SẢN LÀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Ngày 29 tháng 5 năm 2023, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố H xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 08/TLPT-DS ngày 22 tháng 02 năm 2023 về việc kiện đòi tài sản là quyền sử dụng đất, công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số 01/2023/DS-ST ngày 04 tháng 01 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Tiên Lãng, thành phố H có kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử 21/2023/QĐ-PT ngày 07 tháng 4 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 54/2023/QĐ-PT ngày 16 tháng 5 năm 2023, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông Trần Văn T (tên gọi khác: Trần Thanh T), sinh năm 1961và bà Nguyễn Thị I, sinh năm 1966; cùng nơi cư trú: Thôn 6, xã Hùng Thắng, huyện Tiên Lãng, thành phố H; có mặt.

Ngưi bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn - ông Trần Văn T: Ông Nguyễn Đức C, Luật sư Công ty Luật H, Đoàn Luật sư thành phố H; có mặt.

Ngưi bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn - bà Nguyễn Thị I: Bà Lã Thùy Dương, Luật sư Văn phòng Luật sư V, Đoàn Luật sư tỉnh Q; có mặt.

2. Bị đơn: Anh Vũ Thế M, sinh năm 1973; nơi cư trú: Thôn 15, xã Hùng Thắng, huyện Tiên Lãng, thành phố H; có mặt.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Ông Lã Viết Nam và bà Hoàng M Phương, Luật sư Công ty Luật TNHH MTV A, Đoàn Luật sư thành phố H; có mặt.

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Chị Vũ Thị H, sinh năm 1971; nơi cư trú: Thôn 7, xã Hùng Thắng, huyện Tiên Lãng, thành phố H; có mặt.

+ Anh Vũ Văn D, sinh năm 1975; nơi cư trú: Thôn 15, xã Hùng Thắng, huyện Tiên Lãng, thành phố H; vắng mặt.

+ Anh Vũ Thế C, sinh năm 1983; nơi cư trú: Thôn 15 Thái Hòa, xã Hùng Thắng, huyện Tiên Lãng, thành phố H; vắng mặt.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của anh Vũ Thế C: Ông Trần M Nghĩa, Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm Trợ giúp pháp lý thành phố H; có mặt.

+ Chị Lưu Thị H, sinh năm 1986; cháu Vũ Thanh V, sinh năm 2012; cùng nơi cư trú: Thôn Tân Quang, xã Vinh Quang, huyện Tiên Lãng, thành phố H; người đại diện hợp pháp của cháu V: Chị Lưu Thị H (mẹ đẻ) cháu V; chị H và anh Tr có mặt.

+ Anh Vũ Thế Tr, sinh năm 1998; nơi cư trú: Thôn Tân Quang, xã Vinh Quang, huyện Tiên Lãng, thành phố H; vắng mặt;

Người đại diện hợp pháp của chị Vũ Thị H, anh Vũ Văn D, anh Vũ Thế C, chị Lưu Thị H, anh Vũ Thế Tr: Anh Vũ Thế M, sinh năm 1973; nơi cư trú: Thôn 15, xã Hùng Thắng, huyện Tiên Lãng, thành phố H – Là người đại diện theo ủy quyền; có mặt.

+ Chị Vũ Thị H, sinh năm 1976; nơi cư trú: Thôn 3, xóm Kìm, xã Tân Dương, huyện Thủy Nguyên, thành phố H; có mặt.

+ Chị Trần Thị H, sinh năm 1988; nơi cư trú: Tổ dân phố 6, thị trấn An Bài, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình; có mặt.

+ Chị Trần Thị H, sinh năm 1993; nơi cư trú: Thôn 6, xã Hùng Thắng, huyện Tiên Lãng, thành phố H; có mặt.

+ Anh Trần Công M, sinh năm 1997; cùng nơi cư trú: Thôn 6, xã Hùng Thắng, huyện Tiên Lãng, thành phố H; đều vắng mặt.

Người đại diện hợp pháp của anh Trần Công M là: Ông Trần Văn T (là bố đẻ anh Trần Công M), sinh năm 1961; nơi cư trú: Thôn 6, xã Hùng Thắng, huyện Tiên Lãng, thành phố H - Là người đại diện theo ủy quyền; có mặt.

Người kháng cáo: Nguyên đơn là ông Trần Văn T, bà Nguyễn Thị I;

người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là chị Trần Thị H, Trần Thị H và anh Trần Công M.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo hồ sơ vụ án, lời khai các đương sự và bản án sơ thẩm, nội dung vụ án như sau:

- Nguyên đơn là ông Trần Văn T và bà Nguyễn Thị I; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan về phía nguyên đơn là chị Trần Thị H, chị Trần Thị H và anh Trần Công M; người đại diện hợp pháp của bà I, chị H và anh M thống nhất trình bày:

Năm 1993, ông T là công nhân Nông trường quốc doanh Vinh Quang (Nông trường Vinh Quang) nên được cấp diện tích 200m2 đất ở nay thuộc thửa số 66, tờ bản đồ số 04, tại thôn Tân Quang, xã Tiên Hưng (nay là xã Vinh Quang). Ngày 26/3/1993, ông T đã nộp số tiền 500.000 đồng theo quy định và được đo, giao đất trên thực tế. Đến ngày 28/4/1994, Ủy ban nhân dân (UBND) huyện Tiên Lãng mới chính thức có Quyết định số 254/QĐ-UB giao đất cho ông Trần Thanh T (tức Trần Văn T). Thời điểm nhận đất, ông T đã có vợ, con; mặc dù quyết định giao đất chỉ ghi tên một mình ông T nhưng thực chất là giao cho cả gia đình.

Hiện trạng thửa đất khi giao có bề mặt bằng phẳng, gần giống như hiện trạng ngày nay, không có tài sản gì trên đất. Cùng năm 1993, vợ chồng ông Vũ Văn A và bà Trần Thị L (là chị gái ông T) có đề nghị ông T cho gia đình ông A mượn diện tích đất được cấp để cho con trai là anh Vũ Văn H dựng chòi lá ở tạm khi đi đơm đó ngoài vùng biển xã Hùng Thắng; việc cho mượn đất không lập thành văn bản, không có người chứng kiến. Gia đình ông A có dâng lập một phần đất ở khu vực giáp đường, dựng một nhà tạm, công trình phụ và cho vợ chồng anh H sống ở đó được 01 năm thì ly hôn nên chuyển đi nơi khác; thửa đất không có người ở. Do gia đình ông T chưa có nhu cầu sử dụng nên thửa đất vẫn để không, cây cối mọc um tùm; tuy nhiên, ông T vẫn qua lại trông coi, quản lý đất. Thời gian đầu khi được cấp đất, Nhà nước có chính sách ưu đãi đối với khu dân cư mới nên không phải thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với thửa đất. Từ khoảng năm 1995 đến nay, ông T cho bà Phạm Thị U là người cùng thôn sử dụng 2 sào ruộng ngoài đồng nên bà U có nghĩa vụ thay vợ chồng ông T nộp thuế đối với thửa đất. Năm 2020, ông T có nhu cầu làm sổ đỏ đối với diện tích đất được giao thì được biết thửa đất đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) số AH 270459, số vào sổ cấp GCN: H00706 ngày 27/11/2006 cho hộ ông T, bà I. Gia đình ông T không biết ai là người làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận và hiện tại ai đang giữ bản gốc Giấy chứng nhận. Tháng 11/2021, ông T phát hiện gia đình anh M sửa nhà cũ và xây dựng nhà cấp bốn mới trên thửa đất tranh chấp nên ông đã trình báo UBND xã Vinh Quang, yêu cầu anh M dừng việc xây dựng nhà trên đất nên giữa gia đình ông T và gia đình anh M xảy ra tranh chấp về quyền sử dụng đất. Các tài sản trên đất hiện tại đều là tài sản của gia đình ông A, bà L; không liên quan gì đến gia đình ông T, bà I. Để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của gia đình mình, vợ chồng ông T yêu cầu Tòa án giải quyết:

Buộc anh Vũ Thế M và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Vũ Văn D, anh Vũ Thế C, chị Vũ Thị H, chị Lưu Thị H, anh Vũ Thế Tr, chị Vũ Thị H phải tháo dỡ, di dời toàn bộ tài sản, vật kiến trúc xây dựng trên đất để trả lại quyền sử dụng diện tích 193,5m2 (theo kết quả đo đạc thực tế), thửa đất số 71, tờ bản đồ 08, tại địa chỉ thôn Tân Quang, xã Vinh Quang, huyện Tiên Lãng cho vợ chồng ông T và bà I; ông bà không có nghĩa vụ phải thanh toán, bồi thường bất kỳ khoản tiền nào liên quan đến việc quản lý đất, xây dựng các tài sản trên đất cho gia đình ông A, bà L.

Tại Đơn phản tố, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn là anh Vũ Thế M; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan về phía bị đơn (chị Vũ Thị H, anh Vũ Văn D, anh Vũ Thế C) thống nhất trình bày:

Năm 1993, ông T được giao 200m2 đất nhưng không có nhu cầu sử dụng nên đã chuyển nhượng cho ông A, bà L (là bố mẹ của anh M) thửa đất trên với giá 5.000.000 đồng. Thỏa thuận chuyển nhượng, giao tiền diễn ra vào khoảng tháng 3 hoặc tháng 4 năm 1993, tại nhà của vợ chồng ông A có sự tham gia của ông A, bà L, vợ chồng ông T, bà I, các con ông A là M, H, Vũ Văn Tố (chồng chị H), H và những người làm chứng là ông Vũ Văn Tương (hàng xóm) và bà Vũ Thị Khanh (là cháu họ ông A). Văn bản chuyển nhượng đất, giao tiền do ông A trực tiếp viết, được lập thành 02 bản có chữ ký của ông A, bà L, ông T, bà I và ông Tương, bà Khanh. Ông A, bà L đã giao số tiền 5.000.000 đồng cho ông T để ông T nộp tiền cấp đất và làm thủ tục sang tên cho vợ chồng ông A. Gia đình ông A và gia đình ông T mỗi bên giữ một văn bản về việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất, giao tiền; tuy nhiên, sau khi bà L chết (khoảng năm 2018), anh C không tỉnh táo nên đã đốt văn bản mà gia đình ông A giữ do đó không còn văn bản về việc chuyển nhượng, giao tiền để giao nộp cho Tòa án. Văn bản vợ chồng ông T giữ còn hay không bị đơn không biết.

Khi Nhà nước đo, giao đất trên thực tế, ông T thông báo nên anh M và ông A đã đến nhận giao đất, đóng cọc để xác định ranh giới, mốc giới thửa đất với các hộ liền kề, có sự chứng kiến của những hộ dân xung quanh. Thời điểm nhận đất hiện trạng là ao, ruộng trũng, không có tài sản; gia đình anh phải thuê người dâng lập nhiều lần để tạo thành mặt bằng như ngày nay. Ngay sau đó, vợ chồng ông A đã dựng 3 gian nhà đất và cho các con ra sống trên thửa đất đó để làm căn cứ có quyết định cấp đất vào năm 1994 (do điều kiện để được cấp đất là phải trực tiếp sống trên diện tích đất được cấp). Khoảng năm 1996, vợ chồng ông A phá nhà đất, xây dựng nhà cấp 4 và công trình phụ trên đất để cho vợ chồng anh H ra sống. Năm 2003, vợ chồng anh H ly hôn nhưng anh H và cháu Tr vẫn tiếp tục sống tại nhà, đất đó. Khoảng năm 2005, anh H đi xuất khẩu lao động nên đã cho anh Vũ Văn Toản (vợ là Trần Thị Chiêm) là anh họ đến sống nhờ trên đất trong thời gian khoảng 3 năm; sau đó không còn ai sống trên thửa đất nữa. Tuy nhiên, gia đình anh M vẫn quản lý, trông coi nhà, đất và cho người trồng cây nhờ trên đất. Năm 2006, Nhà nước tiến hành khảo sát việc sử dụng đất và lập hồ sơ cấp Giấy chứng nhận đại trà cho người dân. Hộ ông T, bà I được cấp Giấy chứng nhận do trong quyết định giao đất ghi tên ông T. Vì ông T đã chuyển nhượng đất cho vợ chồng ông A nên sau khi được cấp Giấy chứng nhận đã mang về giao lại cho gia đình ông A. Hiện tại, gia đình anh M đang giữ bản chính Giấy chứng nhận cấp cho thửa đất tranh chấp. Vì là anh em, cậu cháu trong gia đình, tin tưởng cậu mợ nên gia đình anh M chưa làm thủ tục sang tên chủ sử dụng trên Giấy chứng nhận từ vợ chồng ông T sang gia đình anh. Sau khi bố mẹ qua đời, anh chị em anh nhiều lần nói chuyện để ông T, bà I thực hiện thủ tục sang tên Giấy chứng nhận; ông T, bà I đồng ý nhưng nhiều lần trì hoãn không thực hiện. Từ khi nhận chuyển nhượng đất (năm 1993) đến khoảng năm 2005, gia đình ông A vẫn thực hiện các nghĩa vụ tài chính đối với thửa đất tranh chấp. Từ năm 2005, gia đình ông A cho bà U là người cùng thôn trồng cây trên thửa đất tranh chấp và sử dụng ruộng ngoài đồng của gia đình ông A, bà U có nghĩa vụ thay gia đình ông A nộp thuế đối với thửa đất hiện đang tranh chấp. Năm 2021, gia đình anh M xây nhà cấp 4 lợp tôn để cho cháu Tr ở, ông T đã cho người đến ngăn cản nên giữa hai gia đình xảy ra tranh chấp. Vợ chồng ông T, bà I đã chuyển nhượng và gia đình anh đã sử dụng đất ổn định từ năm 1993 đến nay, không liên quan gì đến gia đình ông T, bà I.

Vì vậy, đề nghị Tòa án không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; đồng thời, đề nghị Tòa án công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng diện tích 193,5m2 tại thửa đất số 71, tờ bản đồ 08, địa chỉ thôn Tân Quang, xã Tiên Hưng (nay là xã Vinh Quang), huyện Tiên Lãng giữa ông A, bà L và ông T, bà I là hợp pháp, có hiệu lực pháp luật; công nhận quyền sử dụng diện tích 193,5m2 đất và tài sản gắn liền với đất thuộc về những người thừa kế của ông A, bà L là anh Vũ Thế M, chị Vũ Thị H, anh Vũ Văn D, anh Vũ Thế C, chị Lưu Thị H, cháu Vũ Thế Tr và cháu Vũ Thanh V.

Đối với các tài sản gia đình anh (ông A, bà L, anh H, chị H, chị H, cháu Tr) đã xây dựng, gia đình anh sẽ tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tr hợp Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, anh yêu cầu Tòa án buộc vợ chồng ông T phải thanh toán giá trị các tài sản xây dựng trên đất; trả công dâng lập, quản lý, cải tạo đất từ năm 1993 đến nay cho gia đình anh và thanh toán bằng hiện vật là đất.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là chị Vũ Thị H trình bày: Khoảng năm 1997, sau khi chị kết hôn với anh H, mẹ chồng chị là bà L nói với vợ chồng chị là ông bà có thửa đất tại thôn Tân Quang, xã Vinh Quang do nhận chuyển nhượng từ vợ chồng ông T và ông bà cho vợ chồng chị ra thửa đất này để ở. Thời điểm đó phần đất phía giáp đường đã được dâng lập, trên thửa đất đã có một ngôi nhà cấp 4 diện tích khoảng 20m2 do ông A, bà L xây dựng từ trước; phần đất phía đằng sau là ruộng, ao. Vợ chồng chị đóng gạch, xây thêm một nhà cấp 4 diện tích khoảng 30m2 và bể nước mưa, công trình phụ, chuồng lợn, xây cổng, tường bao, tiến hành dâng lập phần đất phía sau giáp đất canh tác để sử dụng. Đến năm 2003, vợ chồng chị sống ly thân, chị chuyển về nhà mẹ đẻ ở thôn Chùa Trên, xã Vinh Quang sinh sống; anh H tiếp tục sống trên thửa đất này. Trong thời gian sống trên đất, vợ chồng chị nộp toàn bộ các khoản thuế, phí và các nghĩa vụ tài chính khác liên quan đến thửa đất; vợ chồng ông T, bà I không có ý kiến gì và không có tranh chấp gì với gia đình chị về quyền sử dụng thửa đất này; sau này, anh H tiếp tục thực hiện các nghĩa vụ tài chính; sau khi anh H chết và cho đến nay thì gia đình anh H vẫn là người nộp thuế đất cho Nhà nước hàng năm. Chị không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của vợ chồng ông T vì diện tích đất này vợ chồng ông T đã bán cho vợ chồng ông A; tài sản trên đất một phần là do chị và anh H xây dựng, một phần là do cháu Tr xây dựng, không liên quan gì đến gia đình ông T. Chị không yêu cầu gì về diện tích đất tranh chấp; các tài sản chị và anh H đầu tư, xây dựng trên đất, chị để lại toàn bộ cho cháu Tr và không có yêu cầu gì đối với các tài sản này. Chị đồng ý với quan điểm của anh M về việc giải quyết vụ án.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là chị Lưu Thị H trình bày: Để chuẩn bị cho việc kết hôn giữa chị và anh H vào năm 2011, anh chị đã tu sửa lại ngôi nhà cũ mà anh H và chị H đã xây dựng trước đó. Sau khi kết hôn, anh chị chung sống với nhau tại nhà, đất này đến khoảng năm 2013 thì anh H đi xuất khẩu lao động, chị chuyển về sống với bà L. Chị cho người quen là bà Phạm Thị U trồng trọt trên đất, việc đóng thuế và quản lý thửa đất vẫn do chị và anh H thực hiện (thông qua bà U). Năm 2021, cháu Tr xây dựng ngôi nhà cấp 4 rộng khoảng hơn 40m2, chi phí xây dựng ngôi nhà này là của chị và cháu Tr. Chị thống nhất để lại phần tài sản của mình cho cháu Tr và không có yêu cầu gì. Chị đồng ý với quan điểm của anh M về việc giải quyết vụ án.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Vũ Thế Tr trình bày: Anh đồng ý với những nội dung bà H và bà H đã trình bày về việc để lại toàn bộ tài sản trên đất cho anh. Tuy nhiên, các tài sản này gắn liền với thửa đất nên anh đồng ý với quan điểm của ông M yêu cầu Tòa án công nhận giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng thửa đất diện tích 193,5m2 giữa ông A, bà L và ông T, bà I là hợp pháp, có hiệu lực pháp luật. Việc thanh toán giá trị các tài sản gắn liền với đất, gia đình anh sẽ tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Tại bản án dân sự sơ thẩm số 01/2023/DS-ST ngày 04/01/2023, Tòa án nhân dân huyện Tiên Lãng, thành phố H đã quyết định:

Căn cứ vào khoản 2, khoản 3, khoản 9 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 200, khoản 1 Điều 158, khoản 1 Điều 165, khoản 1 Điều 166, khoản 1 Điều 147, khoản 1 Điều 157, khoản 1 Điều 228, khoản 2 Điều 229, Điều 271 và khoản 1 Điều 273, Điều 244 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào vào Điều 176, Điều 400, Điều 401, Điều 404 của Bộ luật Dân sự năm 1995; Điều 170, Điều 401 của Bộ luật Dân sự năm 2005; khoản 3 Điều 155, Điều 129, Điều 221, Điều 688 của Bộ luật Dân sự 2015;

Căn cứ Điều 3, Điều 73 của Luật Đất đai năm 1993; Điều 106, khoản 3 Điều 113 của Luật Đất đai năm 2003; Điều 166, 167, Điều 179, Điều 203 của Luật Đất đai năm 2013;

Căn cứ khoản 2, 5 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Tuyên xử:

1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là ông Trần Văn T, bà Nguyễn Thị I về việc buộc anh Vũ Thế M và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Vũ Văn D, anh Vũ Thế C, chị Vũ Thị H, chị Lưu Thị H, anh Vũ Thế Tr, chị Vũ Thị H, cháu Vũ Thanh V phải tháo dỡ, di dời toàn bộ tài sản, vật kiến trúc xây dựng trên đất để trả lại quyền sử dụng diện tích 193,5m2, thửa đất số 71, tờ bản đồ 08, địa chỉ thôn Tân Quang, xã Vinh Quang, huyện Tiên Lãng, thành phố H cho vợ chồng ông T, bà I; ông bà không có nghĩa vụ phải thanh toán, bồi thường bất kỳ khoản tiền nào cho gia đình ông A, bà L liên quan đến việc quản lý đất, xây dựng các tài sản trên đất.

2. Chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn là anh Vũ Thế M. Công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng diện tích 193,5m2, thửa đất số 71, tờ bản đồ 08, địa chỉ thôn Tân Quang, xã Vinh Quang, huyện Tiên Lãng, thành phố H giữa ông Vũ M A, bà Trần Thị L và ông Trần Văn T, bà Nguyễn Thị I có hiệu lực pháp luật. (Vị trí, kích thước, mốc giới có sơ đồ kèm theo).

3. Đình chỉ một phần yêu cầu phản tố của bị đơn là anh Vũ Thế M về việc công nhận quyền sử dụng diện tích 193,5m2 đất và tài sản gắn liền với đất, thửa đất số 71, tờ bản đồ 08, địa chỉ thôn Tân Quang, xã Vinh Quang, huyện Tiên Lãng, thành phố H thuộc về những người thừa kế của ông A, bà L là anh Vũ Thế M, chị Vũ Thị H, anh Vũ Văn D, anh Vũ Thế C, chị Lưu Thị H, cháu Vũ Thế Tr và cháu Vũ Thanh V.

Ngoài ra, bản án dân sự sơ thẩm còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí dân sự sơ thẩm, về nghĩa vụ thi hành án và quyền kháng cáo của các đương sự.

Sau khi xét xử sơ thẩm, tại đơn kháng cáo ghi ngày 04 tháng 01 năm 2023, nguyên đơn là ông Trần Văn T, bà Nguyễn Thị I; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là chị Trần Thị H, Trần Thị H và anh Trần Công M kháng cáo đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đứng về phía bị đơn.

* Tại phiên tòa phúc thẩm:

Nguyên đơn - ông Trần Văn T, bà Nguyễn Thị I, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nguyên đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan về phía nguyên đơn gồm chị Trần Thị H, chị Trần Thị H, người đại diện của anh Trần Công M giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, đề nghị sửa bản án sơ thẩm theo hướng: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bị đơn phải tháo dỡ các tài sản trên đất, trả lại diện tích đất, nguyên đơn sẽ thanh toán công sức quản lý, tôn tạo cho bị đơn và những người liên quan về phía bị đơn, không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn.

Bị đơn - anh Vũ Thế M đồng thời là người đại diện ủy quyền của những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan về phía bị đơn gồm: Chị Vũ Thị H, anh Vũ Văn D, anh Vũ Thế C, chị Lưu Thị H, chị Vũ Thị H, anh Vũ Văn Tr; người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn và của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thống nhất trình bày: Đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm, bác toàn bộ kháng cáo của nguyên đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan về phía nguyên đơn: Không đồng ý với các yêu cầu khởi kiện, quan điểm của nguyên đơn và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan về phía nguyên đơn; giữ nguyên yêu cầu phản tố, đề nghị Tòa án áp dụng Điều 2.2, mục II Nghị quyết số:

02/2004/NQ-HĐTP ngày 10 tháng 8 năm 2004 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân Tối cao: Công nhận quyền sử dụng diện tích đất 193,5m2 thuộc thửa đất số 66, tờ bản đồ số 04, địa chỉ tại địa chỉ thôn Tân Quang, xã Vinh Quang, huyện Tiên Lãng, thành phố H theo giao dịch chuyển nhượng đất giữa vợ chồng ông A, bà L với vợ chồng ông T, bà I có hiệu lực pháp luật, công nhận bị đơn và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan về phía bị đơn có quyền sử dụng thửa đất.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố H phát biểu quan điểm giải quyết vụ án:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của các đương sự kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Tòa án nghị án đã đảm bảo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308; Điều 313 của Bộ luật Tố tụng dân sự, không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 01/2023/DS-ST ngày 04 tháng 01 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Tiên Lãng, thành phố H và buộc những người kháng cáo phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên toà và căn cứ kết quả tranh tụng, Hội đồng xét xử nhận định và xét kháng cáo:

- Về tố tụng:

[1] Người kháng cáo đúng theo quy định tại các Điều 271, 272, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự về quyền kháng cáo, đơn và thời hạn kháng cáo, nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm nên kháng cáo hợp lệ, Tòa án nhân dân thành phố H xem xét giải quyết theo trình tự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

[2] Về việc vắng mặt của những người tham gia tố tụng: Tại phiên tòa phúc thẩm, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là cháu Vũ Thanh V, anh Vũ Văn D, anh Vũ Thế C, chị Trần Thị H, cháu Vũ Thế Tr; anh Trần Công M vắng mặt nhưng người đại diện hợp pháp là anh Vũ Thế M, chị Lưu Thị H có mặt; anh Trần Công M vắng mặt và có đơn đề nghị vắng mặt, ủy quyền cho ông Trần Văn T đại diện. Căn cứ vào Điều 296 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử phúc thẩm tiến hành xét xử theo thủ tục chung.

- Về nội dung: Xét kháng cáo của nguyên đơn là ông Trần Văn T, bà Nguyễn Thị I và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Trần Công M, chị Trần Thị H, chị Trần Thị H:

[3] Sau khi thụ lý phúc thẩm vụ án và tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn không cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ nào khác so với tài liệu, chứng cứ đã cung cấp ở Tòa án sơ thẩm. Với những tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thể hiện:

[3.1] Diện tích đất tranh chấp là 193,5m2 (theo kết quả đo đạc thực tế) thuộc thửa đất số 71, tờ bản đồ 08, tại địa chỉ: Thôn Tân Quang, xã Vinh Quang, huyện Tiên Lãng, thành phố H có nguồn gốc: Tại Quyết định về việc giao đất số 254/QĐ-UB ngày 28 tháng 4 năm 1994 của UBND huyện Tiên Lãng, thành phố H, ông Trần Văn T (Trần Thanh T) được giao diện tích 200m2 đất thuộc thửa đất số 66, tờ bản đồ số 04, địa chỉ thôn Tân Quang, xã Tiên Hưng (nay là xã Vinh Quang), huyện Tiên Lãng; mục đích để làm nhà ở. Theo sơ đồ quy hoạch sử dụng đất của xã Tiên Hưng năm 1995, tờ bản đồ số 08 và sổ mục kê kèm theo: Thửa đất số 70 là đất ao, diện tích 180m2; thửa số 71 là đất thổ cư, diện tích 218m2. Thời điểm này, chủ sử dụng đất ghi trong sổ mục kê là Trần Văn T, có ghi chú thêm là “(H)” vì người đang trực tiếp sử dụng đất là anh Vũ Văn H. Hiện nay, theo bản đồ giải thửa xã Vinh Quang là tờ bản đồ số 40. Năm 2005 - 2006, thực hiện chỉ đạo của C phủ về việc cấp GCCNQSDĐ cho nhân dân nên xã Tiên Hưng đã tiến hành khảo sát và lập hồ sơ cấp GCCNQSDĐ cho các chủ sử dụng đất đủ điều kiện. Vì đất của khu vực xã Tiên Hưng đa phần được cấp theo Quyết định giao đất cho hộ gia đình, cá nhân của Nông trường Vinh Quang nên chính quyền căn cứ vào Quyết định giao đất để cấp GCCNQSDĐ. Việc cấp GCCNQSDĐ trong giai đoạn này là cấp theo đợt, đại trà. Hộ gia đình ông T đã được cấp Giấy chứng nhận số AH270459, số vào sổ cấp GCN là H00706 ngày 27 tháng 11 năm 2006; diện tích 200m2 (theo hiện trạng 193,5m2) là đất ở; diện tích đất còn lại (theo hiện trạng 241,8m2) là đất công ích do UBND xã Vinh Quang quản lý.

[3.2] Căn cứ các tài liệu, lời khai của các bên đương sự, của những người làm chứng, của những người nguyên là cán bộ nông trường cũng được giao đất cùng thời điểm, các hộ giáp ranh và các cán bộ xã thể hiện: Mặc dù không trực tiếp chứng kiến thỏa thuận chuyển nhượng, giao nhận tiền giữa vợ chồng ông A và vợ chồng ông T nhưng đều biết thời điểm năm 1993 ông T có tiêu chuẩn được cấp đất nhưng không có nhu cầu sử dụng nên đã chuyển nhượng cho vợ chồng ông A, bà L. Ông A là người trực tiếp nhận đất, đóng cọc để xác định ranh giới, mốc giới thửa đất với các hộ liền kề; hiện trạng thửa đất khi được giao là ruộng trũng sâu; cây lăn, lác mọc um tùm, trên đất không có tài sản gì, ông A, bà L và các con là những người đã san lấp, cải tạo mặt bằng và xây 03 gian nhà đắp đất và cho con ra sống trên thửa đất. Năm 1996, gia đình ông A, bà L phá dỡ 03 gian nhà đất trên và xây dựng 03 gian nhà lợp ngói kiên cố, sau đó giao cho anh Vũ Thế H cùng vợ, con anh H quản lý, sử dụng; năm 1997, vợ chồng anh H xây thêm một nhà cấp 4 diện tích khoảng 30m2 và bể nước mưa, công trình phụ, chuồng lợn, xây cổng, tường bao, tiến hành dâng lập phần đất phía sau giáp đất canh tác để sử dụng. Năm 2003, vợ chồng anh H ly hôn nhưng anh H và cháu Tr vẫn tiếp tục sống trên đất; năm 2005, anh H đi xuất khẩu lao động nên cho vợ chồng anh Toản, chị Chiêm, bà U mượn nhà đất sinh sống, lời khai của những người này thể hiện gia đình ông A vẫn quản lý, trông coi và cho họ mượn đất chứ không liên quan đến gia đình ông T. Đến năm 2021, anh Tr xây dựng thêm ngôi nhà cấp 4 rộng khoảng hơn 40m2. Trong quá trình quản lý, sử dụng đất gia đình ông A thực hiện nghĩa vụ tài chính liên quan đến thửa đất và sử dụng ổn định đến năm 2021 không phát sinh tranh chấp với ai. Gia đình ông T từ khi được cấp đất không nhận bàn giao và cho đến thời điểm phát sinh tranh chấp không quản lý, sử dụng hay thực hiện nghĩa vụ của người sử dụng đất đối với thửa đất tranh chấp.

[3.3] Như vậy, gia đình ông A, bà L đã trực tiếp quản lý, dâng lập, tôn tạo, xây dựng tài sản trên đất, sử dụng ổn định, lâu dài từ khi được giao đất vào năm 1993 đến khi xảy ra tranh chấp năm 2021 là gần 30 năm và không bị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai. Vợ chồng ông T sinh sống ở gần đó, có qua lại, biết về việc sử dụng đất của gia đình ông A; không quản lý, sử dụng đất cả khi gia đình ông A không trực tiếp sử dụng đất và cho người khác mượn để sử dụng, ông T, bà I nhưng cũng không có ý kiến gì phản đối, khiếu kiện. Do đó, quan điểm của ông T, bà I cho rằng chỉ cho vợ chồng ông A, bà L mượn diện tích đất là không phù hợp với lời khai của những người làm chứng cũng như thực tiễn quá trình quản lý, sử dụng đất và xây dựng tài sản trên diện tích đất tranh chấp.

[4] Mặc dù, bị đơn không cung cấp được tài liệu, chứng cứ bằng văn bản về việc có giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng thửa đất tranh chấp giữa vợ chồng ông T, bà I với vợ chồng ông A, bà L và cho rằng giấy chuyển nhượng đã bị anh Vũ Thế C (em trai anh M) là người bị tâm thần đốt; việc anh C bị bệnh là có thật, các bên đều thừa nhận. Mặt khác, lời khai của bị đơn phù hợp với lời khai của ông Tương, bà Khanh là những người trực tiếp chứng kiến việc chuyển nhượng, giao tiền giữa vợ chồng ông T và vợ chồng ông A, phù hợp với lời nói của ông T trong đoạn ghi âm: “Đây xin nộp tiền thì ai chả biết, năm triệu giấy tờ chúng tao cũng đang cầm kia kìa” đã được Tòa án trưng cầu giám định là tiếng nói của ông T. Tại phiên tòa, ông T thừa nhận tiếng nói trong file ghi âm đúng là của mình phù hợp với quá trình gia đình ông A quản lý, sử dụng, tạo dựng tài sản trên đất.

[5] Từ các phân tích, nhận định nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng quy định tại điểm b.3, tiểu mục 2.2 Phần II Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10 tháng 8 năm 2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và căn cứ Điều 400 của Bộ luật Dân sự năm 1995, Điều 401 của Bộ luật Dân sự năm 2005 và khoản 1 Điều 129 của Bộ luật Dân sự năm 2015, xử không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn về việc: Công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Trần Văn T, bà nguyễn Thị I với ông Vũ Văn A, bà Trần Thị L đối với diện tích 193,5m2 đất thuộc thửa đất số 71, tờ bản đồ số 08, địa chỉ: Thôn Tân Quang, xã Vinh Quang, huyện Tiên Lãng, thành phố H là có căn cứ.

[6] Nay ông A, bà L đã chết nên những người thừa kế của ông A, bà L có quyền sử dụng thửa đất theo quy định. Bị đơn và những người thừa kế của ông A, bà L gồm anh Vũ Thế M, chị Vũ Thị H, anh Vũ Văn D, anh Vũ Thế C, chị Lưu Thị H, cháu Vũ Thế Tr và cháu Vũ Thanh V có nghĩa vụ đến cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để làm thủ tục cấp đổi hoặc cấp lại GCNQSDĐ theo quy định của pháp luật.

[7] Nguyên đơn, những người có quyền lợi, nghĩa vụ về phía nguyên đơn kháng cáo nhưng không cung cấp được chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu kháng cáo là có căn cứ và hợp pháp, nên không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo như ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố H là phù hợp và có căn cứ. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự, giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 01/2023/DS-ST ngày 04 tháng 01 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Tiên Lãng, thành phố H.

 [8] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do không chấp nhận yêu cầu kháng cáo nên nguyên đơn là ông Trần Văn T, bà Nguyễn Thị I và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan về phía nguyên đơn là chị Trần Thị H, anh Trần Công M, chị Trần Thị H phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

[9] Các quyết định khác của bản án dân sự sơ thẩm về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ; về án phí dân sự sơ thẩm; về nghĩa vụ thi hành án, không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 296, khoản 1 Điều 308; Điều 313 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ khoản 1 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Xử: Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn là ông Trần Văn T, bà Nguyễn Thị I và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là chị Trần Thị H, chị Trần Thị H và anh Trần Công M. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 01/2023/DS-ST ngày 04 tháng 01 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Tiên Lãng, thành phố H.

1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là ông Trần Văn T, bà Nguyễn Thị I về việc buộc anh Vũ Thế M và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Vũ Văn D, anh Vũ Thế C, chị Vũ Thị H, chị Lưu Thị H, anh Vũ Thế Tr, chị Vũ Thị H, cháu Vũ Thanh V phải tháo dỡ, di dời toàn bộ tài sản, vật kiến trúc xây dựng trên đất để trả lại quyền sử dụng diện tích 193,5m2 đất thuộc thửa đất số 71, tờ bản đồ 08, địa chỉ: Thôn Tân Quang, xã Vinh Quang, huyện Tiên Lãng, thành phố H cho vợ chồng ông T, bà I. Ông T, bà I không có nghĩa vụ phải thanh toán, bồi thường bất kỳ khoản tiền nào cho gia đình ông A, bà L liên quan đến việc quản lý đất, xây dựng các tài sản trên đất.

2. Chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn là anh Vũ Thế M. Công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng diện tích 193,5m2 đất thuộc thửa đất số 71, tờ bản đồ 08, địa chỉ: Thôn Tân Quang, xã Vinh Quang, huyện Tiên Lãng, thành phố H giữa ông Vũ M A, bà Trần Thị L và ông Trần Văn T, bà Nguyễn Thị I có hiệu lực pháp luật. (Vị trí, kích thước, mốc giới có sơ đồ kèm theo).

3. Đình chỉ một phần yêu cầu phản tố của bị đơn là anh Vũ Thế M về việc công nhận quyền sử dụng diện tích 193,5m2 đất và tài sản gắn liền với đất thuộc thửa đất số 71, tờ bản đồ 08, địa chỉ: Thôn Tân Quang, xã Vinh Quang, huyện Tiên Lãng, thành phố H thuộc về những người thừa kế của ông A, bà L là anh Vũ Thế M, chị Vũ Thị H, anh Vũ Văn D, anh Vũ Thế C, chị Lưu Thị H, cháu Vũ Thế Tr và cháu Vũ Thanh V.

4. Về án phí dân sự phúc thẩm:

Nguyên đơn là ông Trần Văn T và bà Nguyễn Thị I; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là chị Trần Thị H, chị Trần Thị H và anh Trần Công M, mỗi người phải chịu án phí dân sự phúc thẩm là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo các Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0006415, 0006414, 0006417, 0006416 cùng ngày 18 tháng 01 năm 2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tiên Lãng, thành phố H; ông Trần Văn T, bà Nguyễn Thị I, chị Trần Thị H, chị Trần Thị H và anh Trần Công M đã nộp đủ án phí dân sự phúc thẩm.

5. Các quyết định khác của bản án dân sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi bổ sung năm 2014, người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, Điều 7, Điều 7a, Điều 7b và Điều 9 của Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi bổ sung năm 2014. Thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi bổ sung năm 2014.

Bản án dân sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

8
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về kiện đòi tài sản là quyền sử dụng đất số 45/2023/DS-PT

Số hiệu:45/2023/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Phòng
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:29/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về