Bản án về không công nhận quan hệ vợ chồng và tranh chấp nuôi con của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn số 18/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CÙ LAO DUNG, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 18/2022/HNGĐ-ST NGÀY 20/06/2022 VỀ KHÔNG CÔNG NHẬN QUAN HỆ VỢ CHỒNG VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON CỦA NAM, NỮ CHUNG SỐNG VỚI NHAU NHƯ VỢ CHỒNG MÀ KHÔNG ĐĂNG KÝ KẾT HÔN

Ngày 20 tháng 6 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 17/2022/TLST-HNGĐ ngày 10 tháng 3 năm 2022 về việc yêu cầu không công nhận quan hệ vợ chồng và tranh chấp về nuôi con của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 18/2022/QĐXXST- HNGĐ ngày 18 tháng 5 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 10/2022/QĐST-HNGĐ ngày 08 tháng 6 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Võ Thị Thúy A, sinh năm 2000; nơi cư trú ấp N, xã A, huyện C, tỉnh Sóc Trăng.

- Bị đơn: Anh Lâm Văn T1, sinh năm 1990; nơi cư trú ấp N, xã A, huyện C, tỉnh Sóc Trăng.

Tất cả đều vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 08 tháng 02 năm 2022 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Võ Thị Thúy A trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Vào tháng 11 năm 2016 chị Võ Thị Thúy A và anh Lâm Văn T1 tự nguyện tổ chức lễ cưới theo phong tục địa phương, nhưng không có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Sau khi kết hôn chị A và anh T1 chung sống hạnh phúc, đến tháng 02 năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng ý kiến, nên cuộc sống vợ chồng không còn hạnh phúc. Chị A và anh T1 không còn sống chung từ tháng 02 năm 2020 cho đến nay.

Về con chung: Trong thời gian chung sống chị A và anh T1 có 01 người con chung tên Võ Đức T2, sinh ngày 01 tháng 10 năm 2017, hiện nay cháu T2 đang sống chung với chị A.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có.

Nay chị A yêu cầu Tòa án giải quyết như sau:

Về quan hệ hôn nhân: Chị A yêu cầu Tòa án công nhận quan hệ giữa chị A và anh Lâm Văn T1 không phải là quan hệ vợ chồng.

Về con chung: Chị A yêu cầu được nuôi con chung tên Võ Đức T2, sinh ngày 01 tháng 10 năm 2017, cho đến khi cháu T2 thành niên, chị A không yêu cầu anh T1 cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã ban hành thông báo thụ lý vụ án số 17/TB- TLVA ngày 10 tháng 3 năm 2022, tống đạt hợp lệ cho bị đơn anh Lâm Văn T1, nhưng anh T1 không có văn bản trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của chị A. Tòa án đã tiến hành triệu tập hợp lệ đối với anh T1 để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng anh T1 vắng mặt không có lý do, chị A có đơn yêu cầu Tòa án mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và không tiến hành hòa giải nên Tòa án lập biên bản không tiến hành hòa giải được và cũng không có lời khai của anh T1 trong hồ sơ vụ án.

* Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự, trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, riêng bị đơn chưa thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về việc giải quyết vụ án, xét thấy nguyên đơn, bị đơn không có đăng ký kết hôn nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 9; Điều 14 và Điều 53 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, không công nhận quan hệ giữa chị Võ Thị Thúy A và anh Lâm Văn T1 là quan hệ vợ chồng.

- Về con chung: Chị A và anh T1 có 01 con chung tên Võ Đức T2, sinh ngày 01 tháng 10 năm 2017, từ khi sinh ra đến nay đều do chị A trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu T2 và hiện nay cháu T2 đang sống chung với chị A. Căn cứ vào khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình, đề nghị Hội đồng xét xử giao cháu T2 cho chị A trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi thành niên là phù hợp, chị A không yêu cầu anh T1 cấp dưỡng nuôi con chung nên không đặt ra xem xét. Căn cứ vào khoản 1 Điều 81; khoản 1, 3 Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình, giành quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung cho anh T1.

- Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét.

- Về án phí: Chị A có đơn yêu cầu ly hôn nên phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

Từ những phân tích trên đề nghị Hội đồng xét xử nghị án và tuyên án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Về thủ tục thụ lý việc khởi kiện của nguyên đơn và thẩm quyền giải quyết: Chị Võ Thị Thúy A và anh Lâm Văn T1 cùng cư trú tại ấp N, xã A, huyện C, tỉnh Sóc Trăng. Chị A có đơn khởi kiện yêu cầu được ly hôn với anh T1 và yêu cầu được nuôi con chung. Do chị A và anh T1 không có đăng ký kết hôn nên đây là quan hệ yêu cầu Tòa án không công nhận quan hệ vợ chồng và tranh chấp về nuôi con của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn. Chị A đã nộp đơn khởi kiện tại Tòa án nhân dân huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng và các tài liệu, chứng cứ kèm theo, Tòa án nhân dân huyện Cù Lao Dung đã thụ lý đơn và thông báo cho chị A nộp tiền tạm ứng án phí theo quy định của pháp luật và chị A đã thực hiện việc nộp tiền tạm ứng án phí đúng quy định. Như vậy, việc Tòa án nhân dân huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng thụ lý đơn khởi kiện của chị Võ Thị Thúy A là đúng thẩm quyền và đúng theo trình tự thủ tục tố tụng theo quy định tại khoản 8 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 191 và Điều 195 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[1.2] Nguyên đơn chị Võ Thị Thúy A và bị đơn anh Lâm Văn T1 đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai. Chị A có đơn yêu cầu Tòa án xét xử vắng mặt, anh T1 vắng mặt không có lý do nên căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 1, 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử quyết định tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn chị Võ Thị Thúy A và bị đơn anh Lâm Văn T1.

[2] Về nội dung:

[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Võ Thị Thúy A, sinh ngày 10/7/2000 và anh Lâm Văn T, sinh năm 1990 tự nguyện sống chung với nhau như vợ chồng từ tháng 11 năm 2016, khi chị A và anh T1 chung sống với nhau như vợ chồng thì chị A chưa đủ tuổi đăng ký kết hôn nhưng sau đó chị A đã đủ tuổi đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật nhưng chị A và anh T1 không có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Trong quá trình chung sống, do bất đồng quan điểm sống nên anh, chị không còn sống chung với nhau từ tháng 02 năm 2020 cho đến nay. Do tình cảm không còn nên chị A đã làm đơn khởi kiện tại Tòa án để yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn. Căn cứ vào khoản 1 Điều 9; khoản 1 Điều 14 và Điều 53 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 và khoản 4 Điều 3 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06 tháng 01 năm 2016 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật hôn nhân và gia đình, quan hệ giữa chị A và anh T1 không phải là quan hệ vợ chồng.

[4] Về con chung: Chị A và anh T1 có một con chung tên Võ Đức T2, sinh ngày 01 tháng 10 năm 2017, chị A yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu T2 đến tuổi thành niên. Hội đồng xét xử xét thấy, từ khi sinh ra đến nay cháu T2 đều do chị A trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục và để cho cháu T2 ổn định cuộc sống. Căn cứ vào khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử quyết định giao cháu T2 cho chị A trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi thành niên là phù hợp và đúng quy định của pháp luật.

[5] Về cấp dưỡng nuôi con: Trong quá trình giải quyết vụ án, chị A không yêu cầu anh T1 cấp dưỡng nuôi cháu T2 đến tròn 18 tuổi nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[6] Căn cứ vào khoản 1 Điều 81, khoản 1 và khoản 3 Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình, anh Lâm Văn T1 có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung mà không ai được cản trở. Anh T1 không được lạm dụng việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung của chị A.

[7] Về tài sản chung, nợ chung: Chị A xác định không có tài sản chung và nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[8] Xét đề nghị của Kiểm sát viên về nội dung giải quyết vụ án là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[9] Về án phí: Chị Võ Thị Thúy A là người có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn nên căn cứ vào khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, chị A phải chịu án phí sơ thẩm là 300.000 đồng trong vụ án ly hôn.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1, 3 Điều 228 và khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Khoản 1 Điều 9; khoản 1 Điều 14; Điều 53 Luật hôn nhân và gia đình; khoản 4 Điều 3 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06 tháng 01 năm 2016 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật hôn nhân và gia đình.

- Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị Võ Thị Thúy A và anh Lâm Văn T1.

2. Về con chung: Giao cháu Võ Đức T2, sinh ngày 01/10/2017 cho chị Võ Thị Thúy A trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi thành niên. Anh T1 có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung mà không ai được cản trở. Anh T1 không được lạm dụng việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung của chị A.

3. Về cấp dưỡng nuôi con: Chị A không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét.

4. Về tài sản chung, nợ chung: Chị A xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét.

5. Về án phí: Chị Võ Thị Thúy A phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn 300.000 đồng, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án đã nộp 300.000 đồng theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số:

0001804 ngày 03 tháng 3 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng. Như vậy, chị Võ Thị Thúy A đã nộp xong án phí.

6. Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử theo trình tự phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

315
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về không công nhận quan hệ vợ chồng và tranh chấp nuôi con của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn số 18/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:18/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cù Lao Dung - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:20/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về