Bản án về không công nhận quan hệ vợ chồng số 52/2021/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN L, TỈNH Y

BẢN ÁN 52/2021/HNGĐ-ST NGÀY 17/08/2021 VỀ KHÔNG CÔNG NHẬN QUAN HỆ VỢ CHỒNG

Ngày 17 tháng 8 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện L- tỉnh Y, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 104/2021/HNGĐ-ST ngày 08 tháng 4 năm 2021 về việc ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 46/2021/QĐXX-ST ngày 16 tháng 7 năm 2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Anh Hoàng Văn S 34 tuổi Địa chỉ: Thôn Đồng Th- xã V- huyện L- Y, có mặt.

Bị đơn: Chị Hoàng Thị Ph 28 tuổi Địa chỉ: Thôn 3 xã M- huyện L- tỉnh Y, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 08-4-2021 và những lời khai tiếp theo, nguyên đơn là anh Hoàng Văn S trình bày: Anh và chị Hoàng Thị Ph về sống chung với nhau năm 2013 có tổ chức đám cưới theo phong tục tập quán nhưng không làm thủ tục đăng ký kết hôn. Đến năm 2017 giữa hai người xảy ra mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống; chị Ph tự ý bỏ đi làm ăn không còn quan tâm đến gia đình. Nay xác định không thể tiếp tục chung sống, anh đề nghị Toà án giải quyết cho ly hôn. Về con chung: Anh và chị Ph có một cháu là Hoàng Trọng Đ sinh ngày 10-10- 2013; khi ly hôn anh sẽ nuôi cháu Đ, không yêu cầu chị Ph phải cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung anh không yêu cầu giải quyết.

Sau khi thụ lý vụ án, Toà án nhân dân huyện L- tỉnh Y đã ra văn bản thông báo và triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng chị Hoàng Thị Ph vắng mặt nên Toà án tiếp tục giải quyết vụ án theo thủ tục pháp luật quy định.

Tại phiên tòa đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện L- tỉnh Y phát biểu ý kiến: Qúa trình thụ lý, giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng thủ tục tố tụng dân sự; quyền và nghĩa vụ của các đương sự được đảm bảo đúng quy định của pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điều 14; điều 53; các điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng giữa anh Hoàng Văn S và chị Hoàng Thị Ph; giao cháu Hoàng Trọng Đ cho anh S trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng...

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên Toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Tranh chấp giữa anh Hoàng Văn S và chị Hoàng Thị Ph là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện L. Mặc dù đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng chị Ph không có mặt nên Tòa án xét xử vắng mặt bị đơn là đúng quy định của pháp luật.

[2] Về tình cảm: Anh Hoàng Văn S và chị Hoàng Thị Ph về sống chung như vợ chồng năm 2013 không đăng ký kết hôn là đúng thực tế. Thời gian chung sống giữa hai người xảy ra mâu thuẫn, xác định không thể chung sống lâu dài, anh S đề nghị giải quyết cho ly hôn.

Để góp phần xây dựng, hoàn thiện, bảo vệ chế độ hôn nhân, gia đình tiến bộ, Luật Hôn nhân và gia đình quy định: “Việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện...”; “Trong trường hợp không đăng ký kết hôn mà có yêu cầu ly hôn thì Tòa án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng...”. Thực tế trong vụ án này anh Hoàng Văn S và chị Hoàng Thị Ph về chung sống với nhau nhưng không đăng ký kết hôn là vi phạm khoản 1 điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình. Do đó cần phải áp dụng những quy định trên đây để tuyên bố anh S và chị Ph không phải là vợ chồng.

[3] Về con chung: Thời gian chung sống, anh Hoàng Văn S và chị Hoàng Thị Ph có một cháu là Hoàng Trọng Đ sinh ngày 10-10-2013; Qúa trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa anh S đề nghị được nuôi cháu Đ, không yêu cầu chị Ph phải cấp dưỡng nuôi con.

Xét hoàn cảnh thực tế chị Ph đang đi làm ăn xa; trong suốt thời gian sống ly thân, cháu Đ thường xuyên ở với anh S; mặt khác cháu Đ đã trên 07 tuổi và có nguyện vọng được ở với bố. Để đảm bảo sự ổn định trong cuộc sống sinh hoạt, học tập, cần giao cháu Hoàng Trọng Đ cho anh S trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng là phù hợp với hoàn cảnh thực tế, phù hợp với quy định của pháp luật. Do anh S không yêu cầu nên chị Ph không phải cấp dưỡng nuôi con và có quyền thăm nom con chung.

[3] Về tài sản chung; nợ chung: Anh S không yêu cầu giải quyết.

[4] Về án phí: Anh Hoàng Văn S phải chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn Cứ khoản 1 điều 9; khoản 1 điều 14 và khoản 2 điều 53 Luật Hôn nhân và gia đình; điểm b khoản 2 điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng giữa anh Hoàng Văn S và chị Hoàng Thị Ph.

2- Về con chung: Căn cứ các điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình, giao cháu Hoàng Trọng Đ sinh ngày 10-10-2013 cho anh Hoàng Văn S trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Chị Hoàng Thị Ph không phải cấp dưỡng nuôi con và có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở chị Ph thực hiện quyền này.

3. Về án phí: Căn cứ khoản 4 điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; anh Hoàng Văn S phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn. Xác nhận anh S đã nộp đủ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện L- tỉnh Y theo biên lai số AA/2017/0008563 ngày 08-4-2021.

4. Quyền kháng cáo: Căn cứ điều 271, điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; anh Hoàng Văn S có quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; chị Hoàng Thị Ph có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

259
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về không công nhận quan hệ vợ chồng số 52/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:52/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lục Yên - Yên Bái
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về