TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH SƠN, TỈNH PHÚ THỌ,
BẢN ÁN 28/2022/HNGĐ-ST NGÀY 26/07/2022 VỀ KHÔNG CÔNG NHẬN QUAN HỆ VỢ CHỒNG
Ngày 26 tháng 7 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 69/2022/TLST- HNGĐ ngày 04 tháng 4 năm 2022 về việc: “Tranh chấp hôn nhân gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 37/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 06 tháng 7 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 32/QĐHTP-TA, ngày 22/7/2022 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Đ D - sinh năm 1982.
Địa chỉ: Khu L, xã Thượng Cửu, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ.
Bị đơn: Anh H T - sinh năm 1981 Địa chỉ: Khu Lài Cháu, xã Thượng Cửu, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ.
Người bảo vệ quyền và lợi ích cho bị đơn: Bà Đinh Thị Hạnh – Trợ giúp viên thuộc trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Phú Thọ.
(chị D, bà Hạnh có đơn xin xét xử vắng mặt, anh T vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, quá trình làm việc tại Tòa án, nguyên đơn chị Đ D trình bày: Chị và anh T tự nguyện chung sống với nhau từ năm 2002, hai bên có tổ chức đám cưới theo phong tục địa phương, nhưng không đăng ký kết hôn, quá trình chung sống vợ chồng cũng không làm thủ tục đăng ký kết hôn lại. Sau ngày cưới vợ chồng về chung sống cùng gia đình anh T tại xã Thượng Cửu một thời gian, sau đó gia ở riêng, tình cảm vợ chồng ban đầu hòa thuận, hạnh phúc. Đến năm 2007 mâu thuẫn vợ chồng phát sinh, nguyên nhân do chị D và anh T bất đồng quan điểm sống, trong làm ăn phát triển kinh tế gia đình nên có lời qua tiếng lại dẫn đến cãi nhau, xúc phạm nhau. Mặt khác anh chị không còn tin tưởng nhau, anh T hay ghen tuông nhiều khi đánh chị D, bản thân chị D và gia đình nhà chồng cũng không được hòa thuận. Khi mâu thuẫn vợ chồng chị xảy ra đã được gia đình bố mẹ hai bên khuyên bảo nhiều lần, nhưng mâu thuẫn vợ chồng vẫn không khắc phục được ngày càng căng thẳng. Chị và anh T đã sống ly thân từ năm 2008, mỗi người một nơi, không còn quan tâm đến nhau. Chị xác định tình cảm vợ chồng giữa chị và anh T không còn, chị đề nghị Tòa án giải quyết không công nhận chị và anh T là vợ chồng để ổn định cuộc sống.
Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là cháu Hà Thị Thái Huyền, sinh ngày 02/02/2004 và cháu Hà Văn Tuyền, sinh ngày 12/8/2006. Khi ly hôn cháu Huyền đã thành niên tự lực được nên chị không có đề nghị gì, chị D xin được nuôi cháu Tuyền đến khi cháu Tuyền thành niên, chị không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi cháu Tuyền cùng chị. Hiện nay chị D làm lao động tự do thu nhập ổn định đảm bảo cho việc nuôi con chung, chị ở với bố mẹ đẻ chị tại xã Thượng Cửu có nhà ở kiên cố rộng rãi. Từ khi chị ly thân đến nay, anh T không có trách nhiệm gì đối với các con. Con chung chủ yếu do chị D và mẹ đẻ chị D chăm sóc, nuôi dưỡng ăn học.
Về tài sản chung: chị D không đề nghị Tòa án xem xét giải quyết.
Về nợ chung, công sức đóng góp: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Bị đơn, anh H T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng không đến Tòa án để làm việc, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ. Tòa án đã tiến hành thu thập chứng cứ tại nơi cư trú của bị đơn và thực hiện tống đạt các văn bản tố tụng thông qua mẹ đẻ anh T.
Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã xác minh tại địa phương về tình trạng hôn nhân giữa chị D với anh T, lấy lời khai của mẹ đẻ anh T: Theo kết quả xác minh ngày 08/6/2022 tại Ban tư pháp xã Thượng Cửu thì chị D và anh T đều là công dân của khu Lài Cháu, xã Thượng Cửu. chị D và anh T tự nguyện chung sống và tổ chức đám cưới theo phong tục địa phương từ năm 2002, nhưng không làm thủ tục đăng ký kết hôn, quá trình kiểm tra hồ sơ, sổ sách về việc đăng ký kết hôn của công dân trên địa bàn xã Thượng Cửu, không có vợ chồng anh T chị D đăng ký kết hôn theo quy định. Tại biên bản lấy lời khai ngày 08/6/2022 bà Hà Thị Nấm là mẹ đẻ anh T xác định như sau: Năm 2002 anh T con trai bà và chị Đ D tự nguyện chung sống và tổ chức đám cưới theo phong tục địa phương nhưng không làm thủ tục đăng ký kết hôn, trong quá trình chung sống anh chị cũng không đến UBND xã để đăng ký kết hôn. Sau kết hôn anh chị về chung sống cùng gia đình bà một thời gian dài, sau đó vợ chồng chị D, anh T ra ở riêng. Vợ chồng chung sống hòa thuận đến năm 2007 thì xẩy ra mâu thuẫn, không còn quan tâm đến nhau. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh T con trai bà không tập chung làm ăn, vợ chồng không tin tưởng nhau, anh T có lần nóng giận có đánh chị D. Khi mâu thuẫn xảy ra đã được gia đình bà khuyên bảo nhiều lần nhưng anh T không có sự thay đổi, chị D đã đem con về nhà mẹ đẻ chị D ở, vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2008 đến nay. chị D làm đơn xin ly hôn anh T tại Tòa án huyện Thanh Sơn, gia đình bà đã biết và đã nhận được thông báo thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng của Tòa án. Bà có thông báo cho anh T biết việc chị D xin ly hôn, anh T có ý kiến anh chị sống ly thân đã lâu, không còn tình cảm, và không đăng ký kết hôn nên cứ để Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Quan điểm của bà là đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật.
* Quan điểm của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn – Bà Đinh Thị Hạnh: Quan hệ hôn nhân của anh T và chị D đã mâu thuẫn đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài nên đề nghị HĐXX xử không công nhận anh T và chị D không phải là vợ chồng. Về con chung: Điều kiện nuôi con của cả hai bên là như nhau, anh T cũng nhất trí giao cháu Tuyền cho chị D, hơn nữa cháu Tuyền có nguyện vọng xin được ở với mẹ nên đề nghị HĐXX giao cho chị D được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Tuyền. Về tài sản chung, nợ chung, công sức đóng góp: anh T không đề nghị giải quyết * Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát:
Về tố tụng: Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án Thẩm phán đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa tuân thủ các quy định của BLTTDS về phiên tòa sơ thẩm. Các đương sự: Nguyên đơn chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; Bị đơn không thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo qui định của BLTTDS.
Về nội dung vụ án: Căn cứ Điều 9; khoản 1 Điều 14; Điều 53; Điều 81, 82, 83 - Luật hôn nhân và gia đình 2014.
- Đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Đ D: Xử không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị Đ D và anh H T. Về con chung: Giao cho chị D được tiếp tục trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng con chung là cháu Hà Văn Tuyền, sinh ngày 12/8/2006, anh T không phải cấp dưỡng nuôi con chung.
Tài sản chung, công nợ và công sức: chị D không đề nghị giải quyết nên không xem xét.
Về án phí: chị D phải chịu án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về thủ tục tố tụng: Đây là vụ án tranh chấp không công nhận quan hệ vợ chồng được quy định tại khoản 8 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tại thời điểm Tòa án thụ lý, giải quyết vụ án, Nguyên đơn chị Đ D và anh H T, đều có nơi cư trú tại xã Thượng Cửu, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ. Ngày 04/4/2022, chị D nộp đơn xin ly hôn đề nghị Tòa án nhân dân huyện Thanh Sơn giải quyết. Căn cứ quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a, khoản 1 Điều 39 - Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân huyện Thanh Sơn thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền.
Chị Đ D và anh H T chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 2002 đến nay nhưng không làm thủ tục đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, vì vậy đã vi phạm điều cấm của pháp luật, vụ án thuộc trường hợp không được hòa giải theo quy định tại khoản 2 Điều 206 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Xét về sự vắng mặt của các đương sự : Ngày 08/7/2022, chị Đ D nộp đơn đề nghị xét xử vắng mặt tại Tòa án. Anh H T được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ khoản 1+3 Điều 228; Điều 238 - Bộ luật tố tụng dân sự, HĐXX tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.
[2] Về nội dung vụ án: Căn cứ vào lời khai của nguyên đơn chị Chị Đ D và những tài liệu, chứng cứ thu thập có trong hồ sơ vụ án thì có cơ sở xác định như sau:
Chị Đ D và anh H T chung sống với nhau từ năm 2002, trước khi kết hôn hai bên được tự do tìm hiểu và tự nguyện thỏa thuận đi đến cuộc sống chung, vợ chồng cưới hỏi theo phong tục địa phương nhưng chị D và anh T không đi đăng ký kết hôn theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình. Trong quá trình chung sống anh chị cũng không làm thủ tục đăng ký kết hôn, là vi phạm vào khoản 1 Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Nay cuộc sống chung vợ chồng giữa chị D và anh T phát sinh mâu thuẫn trầm trọng, không thể chung sống cùng nhau được, nguyên nhân anh T và chị D bất đồng quan điểm sống, trong làm ăn phát triển kinh tế gia đình nên có lời qua tiếng lại dẫn đến cãi nhau, xúc phạm nhau. Mặt khác anh chị không còn tin tưởng nhau, anh T hay ghen tuông nhiều khi đánh chị D. Sự xác nhận của chị D phù hợp với xác minh của Tòa án về tình trạng hôn nhân của vợ chồng chị tại nơi cư trú (BL 40-41). Như vậy đủ căn cứ chứng minh trong cuộc sống chung anh T thường xuyên có hành vi bạo lực với chị D. Từ những nhận định trên, đủ cơ sở kết luận: Mâu thuẫn vợ chồng chị D, anh T đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, thực tế cuộc hôn nhân không còn tồn tại nên cần xử: Không công nhận chị Đ D và anh H T là vợ chồng là phù hợp với khoản 2 Điều 53 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 [3] Về con chung: Xét nguyện vọng xin nuôi con của chị D là chính đáng vì từ khi chị D và anh T sống ly thân năm 2008 con chung đều do chị D chăm sóc, nuôi dưỡng. Xét thấy: Tại bản tự khai ngày 20/4/2022 (BL 26), cháu Hà Văn Tuyền có nguyện vọng được ở với mẹ. Để đảm bảo quyền lợi và sự phát triển tốt nhất về mọi mặt cho con chưa thành niên khi bố mẹ ly hôn, cần giao cho chị D trực tiếp nuôi dưỡng cháu Hà Văn Tuyền - sinh ngày 12/8/2006 cho đến khi cháu Tuyền thành niên tự lực được. anh T không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Hai bên đều có quyền và nghĩa vụ với con chung, không ai được ngăn cản.
[4] Về tài sản chung: chị D không đề nghị Tòa án giải quyết nên HĐXX không xem xét.
Về nợ chung, công sức đóng góp: chị D xác nhận không có, không yêu cầu giải quyết nên HĐXX không xem xét.
[5] Về án phí: Chị Đ D phải nộp toàn bộ tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.
Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 9, khoản 1 Điều 14, Điều 53, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 4 Điều 147, khoản 1+3 Điều 228, Điều 238; khoản 1 Điều 273 – BLTTDS ; Điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của chị Đ D. Không công nhận chị Đ D và anh H T là vợ chồng.
2. Về con chung: Giao cho chị Đ D được trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng cháu Hà Văn Tuyền, sinh ngày 12/8/2006 đến khi cháu Tuyền thành niên tự lực được. anh T không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho chị D do chị D không yêu cầu.
Hai bên đều có quyền và nghĩa vụ với con chung, không ai được cản trở.
3. Về án phí: Chị Đ D phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Xác nhận chị D đã nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí theo Biên lai thu số AA/2020/0006766 ngày 04/4/2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Thanh Sơn.
Các đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại UBND nơi cư trú đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Phú thọ xét xử theo thủ tục phúc thẩm ./.
"Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 - luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 luật thi hành án dân sự."
Bản án về không công nhận quan hệ vợ chồng số 28/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 28/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thanh Sơn - Phú Thọ |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 26/07/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về