Bản án về không công nhận là vợ chồng số 7a/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH XUYÊN, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 7A/2022/HNGĐ-ST NGÀY 23/06/2022 VỀ KHÔNG CÔNG NHẬN LÀ VỢ CHỒNG

Ngày 23 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 27/2022/TLST– HNGĐ ngày 30 tháng 3 năm 2022 về việc “Không công nhận là vợ chồng”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 29/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 24 tháng 5 năm 2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1970; địa chỉ: Xóm Đ , xã Đồng , thành phố Bắc , tỉnh Bắc Giang Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ dân phố Xuân , thị trấn G , huyện Bình , tỉnh Vĩnh Phúc “có mặt”.

Bị đơn: Ông Lê Hồng P, sinh năm 1968; địa chỉ: Tổ dân phố Xuân , thị trấn G , huyện Bình , tỉnh Vĩnh Phúc “vắng mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 19 tháng 3 năm 2022 và các lời khai tiếp theo tại Tòa án, nguyên đơn bà Nguyễn Thị L trình bày: Bà và ông Lê Hồng P chung sống với nhau từ năm 1988, có tổ chức đám cưới theo phong tục tập quán nhưng không đến chính quyền địa phương để đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Trong quá trình chung sống thời gian đầu sống hạnh phúc, về sau thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống nên thỉnh thoảng có cãi chửi nhau. Việc cãi nhau chỉ giải quyết nội bộ trong gia đình không báo cáo nhờ địa phương giải quyết. Từ năm 2010 cho đến nay bà và ông Phương không sống chung cùng với nhau nữa và hai người không còn quan tâm, chăm sóc gì cho nhau. Nay bà đề nghị Tòa án giải quyết không công nhận bà và ông Phương là vợ chồng.

Về con chung: Bà và ông Lê Hồng P có 02 con chung là Lê Văn Nam, sinh năm 1992 và Lê Thị Yến, năm 1993. Hiện cả 2 cháu đều đã trên 18 tuổi, có công ăn việc làm ổn định nên việc ở với ai là do các cháu tự quyết định, bà không yêu cầu Tòa án giải quyết về con chung.

Về tài sản chung, tài sản riêng, vay nợ: Không có, nên bà không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại đơn xin vắng mặt, bị đơn ông Lê Hồng P trình bày: Ông đã nhận được thông báo thụ lý vụ án, giấy triệu tập của Tòa án... nhưng do bận nên xin vắng mặt tại các buổi làm việc cũng như vắng mặt tại phiên tòa. Ông đề nghị Tòa án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt ông và không công nhận ông với Bà L là vợ chồng.

Về con chung: Ông và bà Nguyễn Thị L có 02 con chung là Lê Văn Nam, sinh năm 1992 và Lê Thị Yến, năm 1993. Hiện cả 2 cháu đều đã trên 18 tuổi, có công ăn việc làm ổn định nên việc ở với ai là do các cháu tự quyết định, ông không yêu cầu Tòa án giải quyết về con chung.

Về tài sản: Không có tài sản chung.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Xuyên phát biểu quan điểm như sau: Việc tuân theo pháp luật trong thời gian chuẩn bị xét xử: Thẩm phán được phân công thụ lý vụ án đã thực hiện đúng, đầy đủ quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về: Thụ lý vụ án, giao nhận thông báo thụ lý vụ án cho Viện kiểm sát và các đương sự, xác định tư cách của những người tham gia tố tụng. Việc xác minh, thu thập tài liệu chứng cứ đúng, đầy đủ. Thẩm phán đã tuân thủ đúng quy định tại Điều 203 Bộ luật tố tụng dân sự về thời hạn chuẩn bị xét xử. Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, thư ký tại phiên tòa: Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về việc xét xử sơ thẩm vụ án.

Những yêu cầu, kiến nghị về thủ tục tố tụng: Không có.

Về đường lối giải quyết vụ án: Áp dụng các Điều 9, 14, 53 của Luật hôn nhân và gia đình; Khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Không công nhận bà Nguyễn Thị L và ông Lê Hồng P là vợ chồng.

Về án phí: Bà L phải chịu án phí sơ thẩm theo qui định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Bà Nguyễn Thị L khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết không công nhận là vợ chồng với ông Lê Hồng P; ông Phương cư trú tại Tổ dân phố Xuân , thị trấn G , huyện Bình , tỉnh Vĩnh Phúc; do đó đây là vụ án hôn nhân gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Bình Xuyên.

Tại phiên tòa bị đơn ông Lê Hồng P vắng mặt nhưng ông có đơn đề nghị Tòa án xét xử vụ án vắng mặt ông nên Tòa án đưa vụ án ra xét xử vắng mặt ông Phương theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ tranh chấp: Bà Nguyễn Thị L chung sống với ông Lê Hồng P từ năm 1988 nhưng không có đăng ký kết hôn tại chính quyền địa phương. Tại Điểm b mục 3 Nghị quyết 35/2000/NQ-QH10 ngày 9 tháng 6 năm 2000 của Quốc hội, về việc thi hành Luật hôn nhân và gia đình quy định: “b)Nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 03 tháng 1 năm 1987 đến ngày 01 tháng 1 năm 2001, mà có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này thì có nghĩa vụ đăng ký kết hôn trong thời hạn hai năm, kể từ ngày Luật này có hiệu lực cho đến ngày 01 tháng 1 năm 2003;.... Từ sau ngày 01 tháng 1 năm 2003 mà họ không đăng ký kết hôn thì pháp luật không công nhận họ là vợ chồng”. Bà L và ông Phương tiếp tục chung sống với nhau mặc dù đủ điều kiện để đi đăng ký kết hôn nhưng ông bà không đến chính quyền địa phương để đăng ký kết hôn theo quy định tại Điều 9,14, 53 của Luật hôn nhân và gia đình. Theo hướng dẫn tại khoản 4 Điều 3 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC- BTP ngày 06/01/2016 hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật hôn nhân và gia đình 2014 thì mối quan hệ giữa Bà L với ông Phương không được pháp luật công nhận là quan hệ vợ chồng. Do vậy, yêu cầu của Bà L là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật và phù hợp với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3] Về con chung: Căn cứ vào lời khai của các đương sự và giấy khai sinh của anh Nam và chị Yến do bà Nguyễn Thị L giao nộp tại Tòa án thì Bà L và ông Lê Hồng P có 02 con chung là Lê Văn Nam, sinh năm 1992 và Lê Thị Yến, năm 1993. Tòa án tiến hành lấy lời khai của anh Nam và chị Yến thì anh chị đều khai là đã xây dựng gia đình và có công ăn việc làm ổn định, không sống phụ thuộc vào bố mẹ. Hội đồng xét xử thấy các con của ông Phương, Bà L đều đã trên 18 tuổi, có công ăn việc làm ổn định nên ông Phương, Bà L không yêu cầu Tòa án giải quyết là có căn cứ.

[4] Về tài sản: Bà Nguyễn Thị L và ông Lê Hồng P đều không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí: Bà Nguyễn Thị L phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều 9, 14, 53 của Luật hôn nhân và gia đình; Khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Không công nhận bà Nguyễn Thị L và ông Lê Hồng P là vợ chồng.

Về án phí: Bà Nguyễn Thị L phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đồng theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0003710 ngày 30 tháng 3 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Xuyên. Bà L đã nộp đủ án phí sơ thẩm.

Đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

206
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về không công nhận là vợ chồng số 7a/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:7a/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Xuyên - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về