TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI
BẢN ÁN 506/2022/HC-PT NGÀY 27/10/2022 VỀ KHỞI KIỆN QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI
Ngày 27 tháng 10 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số 413/2021/TLPT-HC ngày 13 tháng 10 năm 2021 về việc “Khởi kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai”.
Do Bản án hành chính sơ thẩm số 18/2021/HC-ST ngày 03 tháng 8 năm 2021 của Tòa án nhân dân tỉnh LC bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 9809/2022/QĐPT-HC ngày 12 tháng 10 năm 2022 giữa các đương sự:
1. Người khởi kiện: Anh Bùi Quý B; địa chỉ: Tổ 4, phường NC, thành phố LC tỉnh LC; vắng mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện: Chị Bùi Thị T; địa chỉ: Thôn CĐ, xã VH, thành phố LC, tỉnh LC; vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.
2. Người bị kiện: Ủy ban nhân dân thành phố LC, tỉnh LC.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Phùng Đức H - Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố LC; vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.
3. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Chi cục thuế khu vực LC - MK.
Địa chỉ: Số 184, đường HL, phường CL, thành phố LC, tỉnh LC.
Người đại diện: Bà Nguyễn Thị T - Phó Chi cục trưởng Chi cục thuế khu vực LC - MK; vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và bản tự khai người khởi kiện; người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện trình bày:
Anh Bùi Quý B có thửa đất ở và nhà ở gắn liền với đất tại thôn CĐ, xã Vạn Hòa, thành phố LC, tỉnh LC. Đất đã được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh LC cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CC 926995 ngày 03/02/2016 cho người sử dụng đất anh Bùi Quý B, số vào sổ cấp GCN: CS 00975; Thửa đất số 278, tờ bản đồ số P7-19, diện tích: 100m2, Mục đích sử dụng: Đất ở tại nông thôn.
Ngày 08/11/2017, Ủy ban nhân dân (UBND) thành phố LC ban hành Quyết định số 3355/QĐ-UBND về việc thu hồi 100m2 đất của anh Bùi Quý B để thực hiện dự án: Kè sông Hồng, di dân bố trí tái định cư khu vực Cánh Chín, xã Vạn Hòa, thành phố LC (đoạn từ cầu Phố Mới đến xã Vạn Hòa) và Quyết định số 4210/QĐ-UBND phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đối với anh B. Theo đó, anh B được bồi thường về đất ở, tài sản trên đất và các chính sách hỗ trợ.
Ngày 07/02/2020, UBND thành phố ban hành Quyết định số 233/QĐ-UBND về việc giao đất cho anh B nhưng không bàn giao quyết định này cho anh B. Theo quyết định giao đất, anh B được giao 138,75m2 đất tại xã Vạn Hòa, thành phố LC, tỉnh LC.
Ngày 09/3/2020, anh B nhận được Phiếu chuyển thông tin để xác định nghĩa vụ tài chính về đất đai của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố LC và Quyết định số 233/QĐ-UBND thì mới biết phải nộp số tiền chênh lệch quá lớn để nhận được đất tái định cư. Sau đó ngày 07/4/2020, Chi cục thuế khu vực LC – MK đã ban hành Thông báo nộp tiền sử dụng đất số LTB2020501-TK0001809/TB-CCT thông báo anh B phải nộp số tiền là 624.375.000 đồng tiền sử dụng đất.
Trong các ngày 03/4/2020, 13/8/2020, 16/9/2020, 28/10/2020, chị Thủy là người được anh B ủy quyền đã nộp vào ngân sách Nhà nước tổng số tiền là 624.375.000 đồng (trong đó có 272.000.000 đồng tiền được bồi thường khi thu hồi đất ở và 352.375.000 đồng là tiền anh B nộp thêm).
Qua xem xét các quyết định hành chính và các văn bản đã nhận được, anh B nhận thấy có một số nội dung không phù hợp với quy định, cụ thể như sau:
Về bồi thường các tài sản trên đất ở bị thu hồi: Đối với tài sản là nhà cột sắt D70 mm, mái lợp proxi măng, tường xây gạch ba vanh, cao 3,3m, sơn màu, UBND thành phố LC đã áp dụng theo quy định tại điểm c mục 8 tại Phụ lục đơn giá bồi thường ban hành kèm theo Quyết định số 17/2015/QĐ-UBND ngày 22/4/2015 với khung giá 1.266.000 đồng/m2 là không chính xác, không đảm bảo quyền lợi của anh B. Theo anh B phải áp dụng theo quy định tại điểm a, mục 7 tại Phụ lục đơn giá bồi thường ban hành kèm theo Quyết định số 17/2015/QĐ-UBND ngày 22/4/2015 của UBND tỉnh LC với khung giá 2.548.000 đồng/m2 mới chính xác.
Về việc giao đất tái định cư: Tại điểm a khoản 1 Điều 79 Luật đất đai quy định: “Trường hợp không có đất ở, nhà ở nào khác trong địa bàn xã, phường, thị trấn nơi có đất thu hồi thì được bồi thường bằng đất ở hoặc nhà ở”.... Khoản 4 Điều 86 Luật đất đai quy định: “Trường hợp người có đất thu hồi được bố trí tái định cư mà tiền bồi thường không đủ để mua một suất đất tái định cư tối thiểu thì được nhà nước hỗ trợ tiền để đủ mua một suất đất tái định cư tối thiểu”. Đối chiếu với các quy định trên thì khi nhà nước thu hồi đất anh B không có đất ở nào khác trên địa bàn xã Vạn Hòa nên phải được bồi thường đất ở và được hỗ trợ đủ để mua một suất tái định cư. Nhưng anh B không được nhà nước hỗ trợ mà còn phải nộp khoản tiền chênh lệch để được nhận một suất đất tái định cư là không đúng với quy định của pháp luật.
Từ những phân tích trên anh Bùi Quý B đề nghị Tòa án giải quyết:
Hủy Quyết định số 3355/QĐ-UBND ngày 08/11/2017 của UBND thành phố LC về việc thu hồi đất để thực hiện dự án: Kè Sông Hồng, di dân bố trí tái định cư khu vực Cánh Chín, xã Vạn Hòa, thành phố LC (đoạn từ cầu Phố Mới đến xã Vạn Hòa).
Hủy một phần Quyết định số 4210/QĐ-UBND ngày 08/11/2017 của UBND thành phố LC, về việc phê duyệt phương án chi tiết bồi thường, hỗ trợ và tái định cư công trình: Kè Sông Hồng, di dân bố trí tái định cư khu vực Cánh Chín, xã Vạn Hòa, thành phố LC (đoạn từ cầu Phố Mới đến xã Vạn Hòa) đối với phần liên quan đến anh Bùi Quý B.
Hủy Quyết định số 233/QĐ-UBND ngày 07/02/2020 của UBND thành phố LC về việc giao đất cho anh Bùi Quý B di chuyển công trình: Kè Sông Hồng, di dân bố trí tái định cư khu vực Cánh Chín, xã Vạn Hòa, thành phố LC (đoạn từ cầu Phố Mới đến xã Vạn Hòa).
Hủy Thông báo nộp tiền sử dụng đất số LTB2020501-TK0001809/TB-CCT ngày 07/4/2020 của Chi cục thuế khu vực LC – MK.
Buộc UBND thành phố LC và Chi cục thuế khu vực LC – MK phải trả lại cho anh B số tiền 352.375.000 đồng đã nộp vào ngân sách nhà nước tại Ngân hàng thương mại cổ phần đầu tư và phát triển Việt Nam chi nhánh LC.
Người bị kiện Uỷ ban nhân dân thành phố LC trình bày:
Để thực hiện dự án đầu tư xây dựng công trình kè sông Hồng, di dân bố trí tái định cư khu vực Cánh Chín, xã Vạn Hòa, thành phố LC (đoạn từ cầu Phố Mới đến xã Vạn Hòa); ngày 27/5/2016, UBND thành phố LC đã ban hành thông báo thu hồi đất số 747/TB-UBND thu hồi 100m2 đất ở của anh B. Ngày 02/6/2016, Hội đồng bồi thường, hỗ trợ, tái định cư thành phố LC đã phối hợp với các đơn vị liên quan tiến hành kiểm kê đất, tài sản, hoa màu trên đất bị thu hồi của anh B. Sau khi thực hiện thủ tục niêm yết công khai và lấy ý kiến về dự thảo phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, ngày 08/11/2017, UBND thành phố LC đã ban hành Quyết định thu hồi đất số 3355/QĐ-UBND và Quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư số 4210/QĐ-UBND. Ngày 07/02/2020, UBND thành phố ban hành Quyết định số 233/QĐ-UBND về việc giao đất cho anh B. Theo quyết định giao đất anh B được giao 138,75m2 đất tại xã Vạn Hòa, thành phố LC. Ngày 09/3/2020, Văn phòng đăng ký đất đai Chi nhánh thành phố LC đã ban hành Phiếu chuyển thông tin để xác định nghĩa vụ tài chính về đất đai gửi đến Chi cục thuế khu vực LC – MK để cơ quan thuế xác định nghĩa vụ tài chính mà anh B phải thực hiện.
Đối với những nội dung khởi kiện, UBND thành phố LC có ý kiến như sau:
Đối với việc bồi thường tài sản trên đất ở bị thu hồi: Ngày 08/11/2017, UBND thành phố LC đã ban hành Quyết định số 4210/QĐ-UBND và ngày 08/12/2017 đã ban hành Quyết định số 4846/QĐ-UBND về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư trong đó có anh B. Tại hạng mục: Nhà cột sắt D70 mm, mái lợp proxi măng, tường xây gạch ba vanh, cao 3,3m, sơn màu đã được áp giá 1.266.000 đồng/m2 theo quy định tại điểm c, mục 8 tại phụ lục đơn giá bồi thường ban hành kèm theo Quyết định số 17/2015/QĐ-UBND ngày 22/4/2015 của UBND tỉnh LC. Tuy nhiên, sau khi kiểm tra, rà soát lại hồ sơ bồi thường, biên bản thống kê ngày 02/6/2016, đối chiếu với các quy định hiện hành nhận thấy UBND thành phố LC áp giá bồi thường hạng mục tài sản là nhà cột sắt của anh B chưa phù hợp với quy định của pháp luật. Để đảm bảo quyền lợi của anh B, UBND thành phố sẽ yêu cầu các cơ quan chuyên môn kiểm tra, rà soát lại hồ sơ thu hồi, phê duyệt bồi thường của anh B để phê duyệt điều chỉnh bổ sung theo điểm b, mục 7 tại phụ lục đơn giá bồi thường ban hành kèm theo Quyết định số 17/2015/QĐ- UBND ngày 22/4/2015 của UBND tỉnh LC.
Đối với việc giao đất tái định cư: Anh B có hộ khẩu thường trú tại tổ 4 phường NC, thành phố LC tỉnh LC, sổ hộ khẩu số 29362, nhập khẩu ngày 10/01/1995, chủ hộ là bà Vũ Thị Hồng Thảo (mẹ của anh B). Theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 83 Luật đất đai năm 2013; Điều 22, Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 “Hỗ trợ tái định cư đối với trường hợp thu hồi đất ở của hộ gia đình cá nhân, người Việt Nam định cư ở nước ngoài mà phải di chuyển chỗ ở”. Theo quy định tại khoản 1 Điều 12 Luật cư trú số 81/2006/QH11 ngày 29/11/2006 quy định về nơi cư trú của công dân như sau: “1. Nơi cư trú của công dân là chỗ ở hợp pháp mà người đó thường xuyên sinh sống. Nơi cư trú của công dân là nơi thường trú hoặc nơi tạm trú.
Chỗ ở hợp pháp là nhà ở, phương tiện hoặc nhà khác mà công dân sử dụng để cư trú. Chỗ ở hợp pháp có thể thuộc quyền sở hữu của công dân hoặc được cơ quan, tổ chức, cá nhân cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ theo quy định của pháp luật.
Nơi thường trú là nơi công dân sinh sống thường xuyên, ổn định, không có thời hạn tại một chỗ ở nhất định và đã đăng ký thường trú Nơi tạm trú là nơi công dân sinh sống ngoài nơi đăng ký thường trú và đã đăng ký tạm trú.”.
Như vậy, có thể khẳng định anh B có hộ khẩu thường trú tại tổ 4 phường Nam Cường, thành phố LC, không sinh sống tại nơi có đất ở bị thu hồi (thôn CĐ, xã VH), không phải di chuyển chỗ ở. Do vậy, anh B không được hỗ trợ suất tái định cư tối thiểu theo quy định của pháp luật liên quan.
Từ những phân tích trên, UBND thành phố LC khẳng định có sai sót trong việc áp giá đền bù đối với tài sản là nhà cột sắt xây dựng trên đất bị thu hồi của anh B. Tuy nhiên, quyết định thu hồi đất, các nội dung áp giá bồi thường còn lại và việc giao đất tái định cư, chuyển thông tin để xác định nghĩa vụ tài chính của anh B được thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Chi cục thuế khu vực LC – MK trình bày:
Về giải quyết hồ sơ kê khai nộp tiền sử dụng đất của anh B như sau:
Ngày 31/3/2020, Chi cục Thuế tiếp nhận hồ sơ kê khai nộp tiền sử dụng đất của anh Bùi Quý B; ngày 07/4/2020, Chi cục Thuế ra Thông báo nộp tiền sử dụng đất số LTB2020501-TK0001809/TB-CCT, số tiền còn phải nộp NSNN là: 624.375.000 đồng; sau đó anh B đã nộp đủ số tiền trên theo các chứng từ sau: Số: 1284603 ngày nộp 03/4/2020, số tiền nộp là: 272.000.000đồng; Số 274739 ngày nộp 13/8/2020, số tiền là: 132.375.000đồng; Số 3134054 ngày nộp 16/9/2020, số tiền là: 180.000.000 đồng; Số 3746681 ngày nộp 28/10/2020, số tiền là: 40.000.000 đồng.
Trên cơ sở thông tin về thửa đất; Giá đất để thực hiện nghĩa vụ tài chính theo phiếu chuyển thông tin địa chính số: 72/PCTTĐC ngày 09/3/2020 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố LC và Quyết định số 233/QĐ- UBND ngày 07/02/2020 của UBND thành phố LC.
Căn cứ khoản 2 Điều 7 Luật quản lý thuế quy định về nghĩa vụ của người nộp thuế như sau: Căn cứ khoản 2 Điều 4; khoản 2 Điều 14; khoản 2, 3 Điều 17 Nghị định số 45/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định về thu tiền sử dụng đất, về trình tự xác định, thu nộp tiền sử dụng đất và về trách nhiệm của người sử dụng đất. Chi cục Thuế khu vực LC - MK đã ra thông báo nộp tiền sử dụng đất số LTB2020501-TK0001809/TB-CCT ngày 07/4/2020 việc tính thu tiền sử dụng đất đối với anh Bùi Quý B. Đối với yêu cầu khởi kiện của anh B, đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh LC xem xét giải quyết theo quy định của pháp luật.
Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 18/2021/HC-ST ngày 03 tháng 8 năm 2021 của Tòa án nhân dân tỉnh LC đã quyết định:
Căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 83 Luật đất đai 2013; khoản 1 Điều 12 Luật cư trú; Điều 22 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ; Điều 14, 17 Nghị định số 45/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ. Căn cứ các Điều 30, 32, 116; khoản 2 Điều 165; điểm a khoản 2 Điều 193 Luật tố tụng hành chính; Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu án phí và lệ phí Tòa án.
1. Đình chỉ giải quyết yêu cầu khởi kiện của anh Bùi Quý B về việc yêu cầu hủy các quyết định: Quyết định số 3355/QĐ-UBND ngày 08/11/2017 của UBND thành phố LC, về việc thu hồi đất để thực hiện dự án: Kè Sông Hồng, di dân bố trí tái định cư khu vực Cánh Chín xã Vạn Hòa, thành phố LC (đoạn từ cầu Phố Mới đến xã Vạn Hòa); Quyết định số 4210/QĐ-UBND ngày 08/11/2017 của UBND thành phố LC, về việc phê duyệt phương án chi tiết bồi thường, hỗ trợ và tái định cư công trình: Kè Sông Hồng, di dân bố trí tái định cư khu vực Cánh Chín xã Vạn Hòa, thành phố LC (đoạn từ cầu Phố Mới đến xã Vạn Hòa).
2. Bác yêu cầu khởi kiện của anh Bùi Quý B về việc yêu cầu hủy Quyết định số 233/QĐ-UBND ngày 07/02/2020 của UBND thành phố LC, về việc giao đất cho ông Bùi Quý B di chuyển công trình: Kè Sông Hồng, di dân bố trí tái định cư khu vực Cánh Chín xã Vạn Hòa, thành phố LC (đoạn từ cầu Phố Mới đến xã Vạn Hòa); Thông báo nộp tiền sử dụng đất số LTB2020501- TK0001809/TB-CCT ngày 07/4/2020 của Chi cục thuế khu vực LC – MK và yêu cầu Buộc UBND thành phố LC và Chi cục thuế khu vực LC – MK phải trả lại cho anh Bùi Quý B số tiền 352.375.000 đồng (Ba trăm năm hai triệu, ba trăm bảy mươi lăm đồng) đã nộp vào ngân sách nhà nước.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.
Ngày 16/8/2021, người khởi kiện là anh Bùi Quý B có đơn kháng cáo nội dung đề nghị sửa bản án sơ thẩm, chấp nhận yêu cầu khởi kiện: Hủy Quyết định số 3355/QĐ-UBND ngày 08/11/2017 của UBND thành phố LC, về việc thu hồi đất; hủy 1 phần Quyết định số 4210/QĐ-UBND ngày 08/11/2017 của UBND thành phố LC, về việc phê duyệt phương án chi tiết bồi thường, hỗ trợ và tái định cư. Hủy Quyết định số 233/QĐ-UBND ngày 07/02/2020 của UBND thành phố LC, về việc giao đất; Thông báo nộp tiền sử dụng đất số LTB2020501- TK0001809/TB-CCT ngày 07/4/2020 của Chi cục thuế khu vực LC - MK và yêu cầu Buộc UBND thành phố LC và Chi cục thuế khu vực LC - MK phải trả lại cho anh Bùi Quý B số tiền 352.375.000 đồng đã nộp vào ngân sách nhà nước.
Tại phiên tòa phúc thẩm, Người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện Bùi Quý B là chị Bùi Thị Thủy có đơn xin xét xử vắng mặt và rút một phần yêu cầu kháng cáo đối với yêu cầu hủy Quyết định số 3355/QĐ-UBND và Quyết định số 4210/QĐ- UBND của UBND thành phố LC.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng khoản 1 Điều 241 Luật tố tụng hành chính, không chấp nhận kháng cáo của anh Bùi Quý B, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; đơn đề nghị xét xử vắng mặt của các đương sự; ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội; Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy:
[1] Về tố tụng: Ngày 05/3/2021, anh Bùi Quý B có đơn khởi kiện và khởi kiện bổ sung yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh LC hủy các quyết định: Quyết định số 233/QĐ-UBND ngày 07/02/2020 của UBND thành phố LC về việc giao đất cho anh B; Quyết định số 3355/QĐ-UBND ngày 08/11/2017 của UBND thành phố LC về việc thu hồi đất; Quyết định số 4210/QĐ-UBND ngày 08/11/2017 của UBND thành phố LC về phương án chi tiết bồi thường, hỗ trợ và tái định cư; Thông báo nộp tiền sử dụng đất và buộc UBND thành phố LC, Chi cục thuế khu vực LC - MK trả lại cho anh B số tiền sử dụng đất đã nộp; khiếu kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án; Tòa án nhân dân tỉnh LC thụ lý là đúng quy định tại Điều 30; Điều 32, Điều 116 Luật tố tụng hành chính.
Tòa án cấp sơ thẩm xác định Quyết định số 3355/QĐ-UBND ngày 08/11/2017 và Quyết định số 4210/QĐ-UBND ngày 08/11/2017 của UBND thành phố LC hết thời hiệu và đình chỉ là không đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên, tại Đơn đề ngày 21/10/2022 của bà Bùi Thị Thủy là người đại diện theo ủy quyền của anh B đã rút kháng cáo đối với yêu cầu hủy Quyết định số 3355/QĐ-UBND và Quyết định số 4210/QĐ-UBND của UBND thành phố LC. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận việc rút một phần kháng cáo và đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo yêu cầu hủy Quyết định số 3355/QĐ-UBND và Quyết định số 4210/QĐ-UBND.
[2] Về nội dung: Xét tính hợp pháp của Quyết định số 233/QĐ-UBND ngày 07/02/2020 của UBND thành phố LC về việc giao đất cho anh B:
[2.1] Về thẩm quyền ban hành Quyết định số 233/QĐ-UBND: UBND thành phố LC ban hành Quyết định số 233/QĐ-UBND về việc giao đất cho anh B là đúng thẩm quyền theo quy định khoản 2 Điều 59 Luật đất đai 2013.
[2.2] Về trình tự, thủ tục ban hành: Ngày 10/8/2017, Hội đồng bồi thường thiệt hại, hỗ trợ và tái định cư thành phố LC đã họp và xét duyệt tư cách bồi thường; theo đó, anh B được xét duyệt giao 01 suất tái định cư. Ngày 08/11/2017, UBND thành phố LC ban hành Quyết định thu hồi đất số 3355/QĐ-UBND và Quyết định phê duyệt phương án bồi thường số 4210/QĐ- UBND nhưng vì chưa xác định vị trí tái định cư nên chưa tính toán về chế độ hỗ trợ, tái định cư đối với anh B. Ngày 07/02/2020, UBND thành phố LC ban hành Quyết định số 233/QĐ-UBND giao đất cho anh B. Như vậy, UBND thành phố LC ban hành Quyết định số 233/QĐ-UBND đúng trình tự, thủ tục. Tuy nhiên, xét thấy thời điểm thu hồi đất từ năm 2017; nhưng đến năm 2020, UBND thành phố LC mới ban hành Quyết định số 233/QĐ-UBND bố trí tái định cư cho anh B, thời gian giao đất tái định cư kéo dài ảnh hưởng đến cuộc sống sinh hoạt của gia đình anh B.
[2.3] Về nội dung: Anh B có thửa đất ở và nhà ở gắn liền với đất tại thôn CĐ, xã VH, thành phố LC; diện tích đất của anh B đã được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh LC cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CC 926995 ngày 03/02/2016, thửa đất số 278, tờ bản đồ số P7-19, diện tích: 100m2, mục đích sử dụng: Đất ở tại nông thôn.
Tại Biên bản kiểm tra số lượng đất đai, tài sản, hoa mầu đối với hộ anh B ngày 02/6/2016 của Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố LC thể hiện:
Đất ở là 100m2 thửa số 278, số tờ bản đồ P07-19. Tài sản vật kiến trúc, cây cối, hoa mầu trên đất: Nhà cột sắt, bể phốt, bể chứa nước ăn, nhà vệ sinh… Ngày 08/11/2017, UBND thành phố LC ban hành Quyết định số 3355/QĐ-UBND thu hồi 100m2 đất của anh B để thực hiện dự án: Kè sông Hồng, di dân bố trí tái định cư khu vực Cánh Chín, xã Vạn Hòa, thành phố LC (đoạn từ cầu Phố Mới đến xã Vạn Hòa) và Quyết định số 4210/QĐ-UBND phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đối với anh B.
Theo Quyết định số 4210/QĐ-UBND, anh B được bồi thường về đất ở, tài sản trên đất và các chính sách hỗ trợ với số tiền tổng cộng là 536.400.000 đồng, cụ thể:
Đất đai: 100m2 đất ở x 2.720.000 đồng = 272.000.000 đồng;
Tài sản, vật kiến trúc: Nhà, công trình phụ = 250.200.529 đồng; Các chính sách hỗ trợ:
Hỗ trợ chênh lệch suất tái định cư tối thiểu: Chưa xác định được vị trí tái định cư - chưa tính toán;
Hỗ trợ di chuyển nhà trong tỉnh: 5.000.000 đồng; Hỗ trợ ổn di chuyển đường điện: 2.000.000 đồng;
Hỗ trợ ổn định đời sống khi thu hồi đất ở và phải di chuyển chỗ ở: 7.200.000 đồng.
Theo Quyết định số 233/QĐ-UBND anh B được giao diện tích 138,75m2 đất tại xã Vạn Hòa, thành phố LC để sử dụng vào mục đích đất ở; Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất; giá đất để thực hiện nghĩa vụ tài chính nộp 4.500.000đồng/m2. Tại Thông báo nộp tiền sử dụng đất số LTB2020501-TK0001809/TB-CCT ngày 07/4/2020 của Chi cục thuế khu vực LC - MK anh B phải nộp tổng số tiền 624.375.000đồng. Như vậy, theo Quyết định số 233/QĐ-UBND thì anh B không được hỗ trợ chênh lệch suất tái định cư tối thiểu, mà phải nộp 100% tiền sử dụng đất với đơn giá 4.500.000 đồng/m2.
Theo các tài liệu có trong hồ sơ, anh Bùi Quý B có hộ khẩu thường trú tại tổ 4, phường Nam Cường, thành phố LC (chủ hộ bà Vũ Thị Hồng Thảo là mẹ của anh B). Tuy nhiên, theo xác nhận của UBND xã Vạn Hòa (căn cứ vào nội dung làm việc với Công an viên, Trưởng thôn, Bí thư chi bộ, Trưởng ban công tác mặt trận khu dân cư thôn Cánh Đông) thì anh B đến sinh sống tại thôn Cánh Đông từ năm 2015, sinh sống trên nhà, đất ở do nhận chuyển nhượng từ chị gái là chị Bùi Thị Thủy nên chỉ thông báo lưu trú với Công an viên thôn Cánh Đông. Quá trình sinh sống tại địa phương anh B chấp hành đầy đủ nghĩa vụ công dân, nộp các loại quỹ đúng quy định và tên trong danh sách cử tri bầu cử Đại biểu Quốc Hội khóa 14 và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016 – 2021 của xã Vạn Hòa. Ngoài diện tích đất đã nhận chuyển nhượng từ chị Bùi Thị Thủy và bị Nhà nước thu hồi thì anh B chưa được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp đất ở khác tại thành phố LC. Mặt khác, theo xác nhận của Công an phường Nam Cường, anh B có hộ khẩu tại tổ 4, phường Nam Cường, thành phố LC, không thường xuyên có mặt tại địa phương từ tháng 4/2015 đến đầu tháng 9/2018 và anh B chưa được giao đất, cấp đất ở trên địa bàn phường Nam Cường.
Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy: Anh B có chỗ ở hợp pháp tại thôn Cánh Đông, xã Vạn Hoà, thành phố LC; thường xuyên sinh sống tại nơi có đất bị thu hồi và phải di chuyển chỗ ở; theo Quyết định số 4210/QĐ-UBND thì anh B được hỗ trợ di chuyển nhà trong tỉnh là 5.000.000 đồng; hỗ trợ ổn định đời sống khi thu hồi đất ở và phải di chuyển chỗ ở là 7.200.000 đồng. Anh B chưa được giao đất, cấp đất ở trên địa bàn thành phố LC và không có chỗ ở nào khác; hiện tại gia đình anh B vẫn phải đi thuê nhà. Như vậy, căn cứ quy định theo Điều 75; Điều 79; điểm c khoản 2 Điều 83; Điều 86 Luật đất đai năm 2013; Điều 22 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ thì anh B đủ điều kiện được bồi thường bằng đất ở và hỗ trợ tái định cư. Như vậy, Quyết định số 233/QĐ-UBND giao cho anh B 138.75m2 đất và buộc anh B phải nộp tiền sử dụng đất với đơn giá 4.500.000 đồng/m2 là không đúng quy định pháp luật đất đai. Do đó, có căn cứ chấp nhận yêu cầu kháng cáo của anh B về việc hủy Quyết định số 233/QĐ-UBND.
[3] Xét kháng cáo đề nghị huỷ Thông báo nộp tiền sử dụng đất số LTB2020501-TK0001809/TB-CCT ngày 07/4/2020 của Chi cục thuế khu vực LC - MK và yêu cầu buộc UBND thành phố LC và Chi cục thuế khu vực LC - MK phải trả lại cho anh Bùi Quý B số tiền 352.375.000 đồng đã nộp vào ngân sách Nhà nước.
Về thẩm quyền: Căn cứ theo quy định khoản 2 Điều 14; khoản 3 Điều 17 Nghị định số 45/2014/NĐ-CP của Chính phủ, Chi cục thuế khu vực LC – MK ban hành Thông báo nộp tiền sử dụng đất số LTB2020501- TK0001809/TB-CCT ngày 07/4/2020 gửi cho anh B là đúng thẩm quyền.
Về trình tự, thủ tục: Ngày 09/3/2020, Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai Chi nhánh thành phố LC đã có phiếu chuyển thông tin để xác định nghĩa vụ tài chính về đất đai đối với anh B cho Chi cục thuế khu vực LC – MK. Ngày 31/3/2020, anh B nộp tờ khai nộp tiền sử dụng đất tại Chi cục thuế khu vực LC – MK. Ngày 07/4/2020, Chi cục thuế khu vực LC – MK ban hành Thông báo nộp tiền sử dụng đất đối với anh B. Như vậy, Chi cục thuế khu vực LC – MK ban hành Thông báo nộp tiền sử dụng đất đối với anh B đúng theo quy định.
Ngày 07/4/2020, Chi cục thuế khu vực LC – MK đã ban hành Thông báo nộp tiền sử dụng đất số LTB2020501-TK0001809/TB-CCT thông báo anh B phải nộp số tiền là 624.375.000 đồng tiền sử dụng đất. Trong các ngày 03/4/2020, 13/8/2020, 16/9/2020, 28/10/2020, chị Thủy là người được anh B ủy quyền đã nộp vào ngân sách Nhà nước tổng số tiền là 624.375.000 đồng (trong đó có 272.000.000 đồng tiền được bồi thường khi thu hồi đất ở và 352.375.000 đồng là tiền anh B nộp thêm). Như đã phân tích tại mục [2.3], anh B đủ điều kiện được bồi thường bằng đất ở và hỗ trợ tái định cư. Vì vậy, Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của anh B huỷ Thông báo nộp tiền sử dụng đất số LTB2020501-TK0001809/TB-CCT thông báo anh B phải nộp số tiền là 624.375.000 đồng tiền sử dụng đất; buộc UBND thành phố LC và Chi cục thuế LC – MK trả lại cho anh B số tiền 352.375.000 đồng đã nộp vào ngân sách Nhà nước.
[4] Về án phí: Kháng cáo của anh Bùi Quý B được chấp nhận nên anh B không phải chịu tiền án phí hành chính phúc thẩm. Người bị kiện UBND thành phố LC phải chịu án phí hành chính sơ thẩm theo quy định.
[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điều 30, Điều 32, Điều 116, điểm b khoản 2 Điều 193, khoản 3 Điều 229, khoản 2 Điều 241 Luật tố tụng hành chính; Điều 75, Điều 79, điểm c khoản 2 Điều 83, Điều 86 Luật đất đai năm 2013; Điều 22 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án, 1. Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của anh Bùi Quý B về việc yêu cầu hủy các quyết định: Quyết định số 3355/QĐ-UBND ngày 08/11/2017 của UBND thành phố LC, về việc thu hồi đất để thực hiện dự án: Kè Sông Hồng, di dân bố trí tái định cư khu vực Cánh Chín xã Vạn Hòa, thành phố LC (đoạn từ cầu Phố Mới đến xã Vạn Hòa); Quyết định số 4210/QĐ- UBND ngày 08/11/2017 của UBND thành phố LC, về việc phê duyệt phương án chi tiết bồi thường, hỗ trợ và tái định cư công trình: Kè Sông Hồng, di dân bố trí tái định cư khu vực Cánh Chín xã Vạn Hòa, thành phố LC (đoạn từ cầu Phố Mới đến xã Vạn Hòa).
2. Chấp nhận kháng cáo của anh Bùi Quý B; sửa một phần Bản án hành chính sơ thẩm số 18/2021/HC-ST ngày 03/8/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh LC; cụ thể:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Bùi Quý B về việc yêu cầu hủy Quyết định số 233/QĐ-UBND ngày 07/02/2020 của UBND thành phố LC, về việc giao đất cho anh Bùi Quý B di chuyển công trình: Kè Sông Hồng, di dân bố trí tái định cư khu vực Cánh Chín, xã Vạn Hòa, thành phố LC (đoạn từ cầu Phố Mới đến xã Vạn Hòa); hủy Thông báo nộp tiền sử dụng đất số LTB2020501-TK0001809/TB-CCT ngày 07/4/2020 của Chi cục thuế khu vực LC – MK; buộc UBND thành phố LC và Chi cục thuế khu vực LC – MK phải trả lại cho anh Bùi Quý B số tiền 352.375.000 đồng (Ba trăm năm mươi hai triệu, ba trăm bảy mươi lăm nghìn đồng) đã nộp vào ngân sách nhà nước.
3. Về án phí:
Anh Bùi Quý B không phải chịu án phí hành chính sơ thẩm và phúc thẩm, hoàn trả anh B số tiền 600.000đ tạm ứng án phí đã nộp theo các Biên lai số AC/2012/0001616 ngày 16/3/2021 và Biên lai số 0000054 ngày 18/8/2021 đều của Cục Thi hành án dân sự tỉnh LC.
UBND thành phố LC phải chịu 300.000 đồng án phí hành chính sơ thẩm.
4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
5. Bản án hành chính phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
Bản án về khởi kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai số 506/2022/HC-PT
Số hiệu: | 506/2022/HC-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Ngày ban hành: | 27/10/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về