TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THÁI NGUYÊN
BẢN ÁN 01/2021/HC-ST NGÀY 01/02/2021 VỀ KHIẾU QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI
Ngày 01 tháng 02 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên, mở phiên tòa xét xử công khai sơ thẩm theo thủ tục thông thường, vụ án hành chính sơ thẩm thụ lý số: 22/2018/ TLST-HC, ngày 05 tháng 03 năm 2018 về “Khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 23/2019/QĐXX-ST ngày 22 tháng 10 năm 2019, giữa các đương sự:
1. Người khởi kiện:Bà Vũ Thị H, sinh năm 1947 (Có mặt) Địa chỉ: X, đường TN, tổ Y (nay là tổ Z), phường Đồng Quang, TPTN, tỉnh Thái Nguyên
2. Người bị kiện: Chủ tịch Ủy ban nhân dân T Địa chỉ: K, đường NT, TPTN, tỉnh Thái Nguyên Người đại diện hợp pháp: Ông Lê QT – chức vụ: Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân T (theo văn bản ủy quyền số 49/QĐ-UBND ngày 12/01/2021) – Có đơn xin xét xử vắng mặt
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Ủy ban nhân dân T Địa chỉ: K, đường NT, TPTN, tỉnh Thái Nguyên Người đại diện hợp pháp: Ông Lê QT – Chức vụ: Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân T (theo văn bản ủy quyền số 49/QĐ-UBND ngày 12/01/2021) – Có đơn xin xét xử vắng mặt
3.2. Ủy ban nhân dân TPTN, tỉnh Thái Nguyên
3.3. Chủ tịch ủy ban nhân dân TPTN, tỉnh Thái Nguyên Địa chỉ: O, đường ND, TPTN, tỉnh Thái Nguyên Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn TB – Chức vụ: Chủ tịch ủy ban nhân dân TPTN (Vắng mặt)
3.4. Hợp tác xã dịch vụ tổng hợp nông nghiệp PĐP, TPTN, tỉnh Thái Nguyên Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn VT – chủ nhiệm HTX (có đơn xin vắng mặt) Địa chỉ: Tổ W, phường PĐP, TPTN, tỉnh Thái Nguyên
3.5. Bà Vũ Thị P, sinh năm 1942 (có đơn xin vắng mặt) Địa chỉ: Tổ X1, phường PĐP, TPTN, tỉnh Thái Nguyên
3.6. Bà Vũ TP, sinh năm 1949 (có đơn xin vắng mặt) Địa chỉ: Tổ W, phường PĐP, TPTN, tỉnh Thái Nguyên
3.7. Bà Vũ TT, sinh năm 1952 (có đơn xin vắng mặt) Địa chỉ: Tổ 3, phường Tân Lập, TPTN, tỉnh Thái Nguyên
3.8. Bà Vũ Thị B, sinh năm 1954 (có đơn xin vắng mặt) Địa chỉ: Xóm ĐT, phường ĐB, TPTN, tỉnh Thái Nguyên
3.9. Bà Vũ Thị T1, sinh năm 1957 (có đơn xin vắng mặt) Địa chỉ: Tổ W, phường PĐP, TPTN, tỉnh Thái Nguyên
3.10. Anh Vũ Viết L, sinh năm 1988 (có đơn xin vắng mặt) Địa chỉ: Tổ W, phường PĐP, TPTN, tỉnh Thái Nguyên
3.11. Ông Vũ Viết T2, sinh năm 1963 (có đơn xin vắng mặt) Địa chỉ: Tổ X1, phường PĐP, TPTN, tỉnh Thái Nguyên
3.12. Bà Vũ Thị T3 (có đơn xin vắng mặt) Địa chỉ: Tổ W, phường PĐP, TPTN, tỉnh Thái Nguyên
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo nội dung đơn khởi kiện,quá trình giải quyết vụ án bà Vũ Thị H trình bày: Bố mẹ đẻ bà là cụ Vũ Viết T4 và PT (đều chết năm 1995). Bố mẹ bà sinh được 09 người con gồm: Vũ Thị P, Vũ Thị H, Vũ TP, Vũ TT, Vũ Thị B, Vũ Thị T1, Vũ Viết D (chết năm 2017) có vợ tên là O1 (đã ly hôn) có 01 con chung là Vũ Viết L, Vũ Viết T2 và Vũ Thị T3. Bố mẹ bà được chính phủ cấp thửa đất số 467, tờ bản đồ số 3 bản đồ 299, diện tích 304m2 và thửa đất số 241, tờ bản đồ số 7 bản đồ 299, diện tích 216m2 từ thời cải cách ruộng đất năm 1953, chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Năm 1995 bố mẹ bà chết không để lại di chúc.
Năm 1996, thực hiện dự án để xây khu dân cư phường PĐP, TPTN, Uỷ ban nhân dân TPTN (viết tắt là UBND TPTN) đã đổ đất san lấp các thửa ruộng của gia đình bà cùng các hộ dân khác. Khi gia đình bà có ý kiến về việc san lấp ruộng thì các cán bộ nói cứ san lấp xong sẽ đền bù nên gia đình bà không có ý kiến gì, gia đình bà chờ đợi nhiều năm nhưng không nhận được quyết định về việc chi trả tiền đền bù. Năm 2002 được sự ủy quyền của các anh chị em trong gia đình bà làm đơn kiến nghị đến UBND TPTN về việc gia đình bà bị thu hồi đất mà không ban hành quyết định thu hồi đất, không được đền bù, đồng thời cũng xây nhà trên đất của gia đình đã bị san lấp, không thấy chính quyền địa phương đến nhắc nhở xử phạt hay có ai đến đòi hỏi quyền lợi gì.
Sau khi bà có đơn kiến nghị, ngày 17/7/2006 phòng Tài chính TPTN giao cho bà Quyết định số 285/QĐ-UB ngày 23/7/1992 của UBND tỉnh BT về việc cấp đất xây dựng khu dân cư TPTN và Biên bản thống kê đền bù ghi ngày 16/4/1993. Ngày 20/5/2010 UBND TPTN có Quyết định số 2932/QĐ-UBND về việc giải quyết đơn khiếu nại của bà. Không nhất trí với Quyết định 2932/QĐ-UBND bà tiếp tục có đơn khiếu nại đến UBND T, UBND T giao nhiệm vụ cho UBND TPTN. Ngày 29/4/2011 Chủ tịch ủy ban nhân dân TPTN đã ban hành Quyết định số 4408/QĐ- UBND về việc giải quyết đơn khiếu nại của bà với nội dung không chấp nhận khiếu nại, bà tiếp tục khiếu nại lần 2 đến Chủ tịch UBND T. Đầu tháng 7/2017 bà nhận được Quyết định số 1396/QĐ-UBND ngày 05/6/2017 của Chủ tịch UBND T về việc hủy bỏ hiệu lực pháp lý của khoản a Điều 1 Quyết định số 4408/QĐ-UBND ngày 29/4/2011 của Chủ tịch UBND nhân dân TPTN.
Quyết định 1396/QĐ-UBND cho rằng bà không có quyền khiếu nại vì không liên quan đến quyết định 285/QĐ-UB ngày 23/7/1992, bà không phải là người đại diện hợp pháp của gia đình là không có căn cứ. Việc UBND TPTN thu hồi đất của gia đình bà không ban hành quyết định thu hồi đất và không đền bù cho gia đình bà là sai, trái pháp luật. Không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần 2 của Chủ tịch UBND T. Ngày 26/7/2017 bà H có đơn khởi kiện, đơn khởi kiện bổ sung ngày 07/2/2018 yêu cầu Tòa án hủy quyết định số 1396/QĐ-UBND ngày 05/6/2017 của Chủ tịch UBND T.
- Người đại diện hợp pháp của Chủ tịch UBND T và UBND T trình bày: Đối vơi viêc ban hanh Quyết điṇ h số 285/QĐ-UB ngay 23/7/1992 cua UBND tinh BT (nay la tinh T) về viêc cấp đất xây dưng khu dân cư phương PĐP, TPTN, UBND tinh BT (nay la tinh T) đa ban hanh đung thâm quyền quy điṇ h tai Luât đất đai năm 1987 va cac văn ban hương dẫn thi hanh. Cu thê:
- Ngay 10/10/1991, UBND thanh phố đa thanh lâp đoan công tac gồm thanh phần đai diên cho Phong xây dưng – nha đất, Phong Nông Lâm nghiêp, UBND phương PĐP va HTX nông nghiêp QT đê tiến hanh đi thưc điạ tai môt số khu đất ruông co năng suất thấp. Đoan công tac đa lâp biên ban thống nhất đề nghị UBND TPTN va cac cơ quan chưc năng xem xet cho thu hồi va chuyên muc đich sư dung đất nông nghiêp năng suất thấp sang quy hoach khu dân cư đê bố tri dân cư cho môt số hô nông nghiêp va hô dân thuôc thanh phố.
- Ngay 15/10/1991, UBND phương PĐP đa co tơ trinh số 10/UB trinh UBND TPTN về viêc xin cấp đất quy hoach môt số khu dân cư trên điạ ban phương.
- Ngay 06/11/1991, UBND TPTN co tơ trinh số 150/UB-TT trinh UBND tinh BT (nay la tinh T) về viêc xin quy hoach cac khu dân cư thuôc phương PĐP.
- Ngay 16/3/1992, Sơ xây dưng co Công văn số 141/QH-XD trinh UBND tinh phê duyêt cấp đất cho UBND TPTN xây dưng khu dân cư phương PĐP.
- Ngay 01/6/1992, Chi cuc Quan ly ruông đất đo đac ban đồ BT đa co Công văn số 165/ĐCQH-RĐ đề nghi ̣ UBND tinh BT cho phep UBND TPTN đươc chuyên 7.956 m2 đất nông nghiêp thuôc HTX nông nghiêp QT, phương PĐP sang đất khu dân cư thanh phố.
- Ngay 23/7/1992, UBND tinh BT đa ban hanh quyết điṇ h số 285/QĐ-UB về viêc cấp đất xây dưng khu dân cư TPTN.
Đối vơi viêc ban hanh Quyết điṇ h số 1396/QĐ-UBND ngay 05/6/2017 về viêc huy bo hiêu lưc phap ly cua khoan a, Điều 1, Quyết điṇ h số 4408/QĐ-UBND ngay 29/4/2011 cua Chu tic̣ h UBND TPTN, Chủ tịch UBND tinh T đa ban hanh đung thâm quyền quy điṇ h tai Luât tô chưc chinh quyền điạ phương năm 2015.
- Ngay 28/3/2017, UBND tinh ban hanh Công văn số 1153/UBND-TCD giao cho Thanh tra tinh T kiêm tra qua trinh giai quyết đơn cua ba Vu Thi ̣H, trú tai tô Y, phương ĐQ, TPTN không nhất tri vơi Quyết điṇ h số 4408 cua UBND TPTN.
- Ngay 27/4/2017, Thanh tra tinh lâp Bao cao số 287/BC-TTR về viêc bao cao kiêm tra, lam ro đơn cua công dân Vu Thi ̣H. Xac điṇ h: Viêc ba H khiếu nai đoi bồi thương diên tich đất cua bố đe la ông Vu Viết T4 đươc HTX nông nghiêp QT giao sư dung canh tác, năm 1992 UBND tinh giao UBND thanh phố đê quy hoach khu dân cư thuôc trương hơp không đươc thu ly đê giai quyết theo quy điṇ h cua phap luât vi theo khoan 3 Điều 32 Luât Khiếu nai, tố cao sưa đôi, bô sung ngay 29/11/2005 quy điṇ h: “Khiếu nai thuôc môt trong cac trương hơp sau đây không đươc thu ly đê giai quyết…Ngươi đai diên không hơp phap; thơi hiêu khiếu nại đa hết…”. Theo đo, Thanh tra tinh kiến nghi ̣Chu tic̣ h UBND tinh ban hanh quyết điṇ h huy bo hiêu lưc phap ly cua khoan a Điều 1 Quyết điṇ h số 4408/QĐ-UBND ngày 29/4/2011 cua Chu tic̣ h UBND TPTN về viêc giai quyết theo quy điṇ h cua Luât Khiếu nai, tố cao.
- Ngay 05/6/2017, Chu tic̣ h UBND T ban hanh Quyết điṇ h số 1396/QĐ-UBND về viêc huy bo hiêu lưc phap ly cua khoan a Điều 1 Quyết điṇ h số 4408/QĐ-UBND ngay 29/4/2011 cua Chu tic̣ h UBND TPTN. Xac điṇ h khiếu nai cua ba Vu Thi ̣ H không co cơ sơ xem xet giai quyết vi ba H không co quyền va lơi ich liên quan đến 02 thưa đất ruông số 241 bản đồ 299 tờ số 7 va 467 ban đồ 299 tờ số 3 tai phương PĐP vi đây la 02 thưa đất thuôc quyền quan ly, sư dung cua Hơp tac xa QT giao cho ông Vu Viết T4 canh tac, nôp thuế. Khi nha nươc thu hồi đất cua Hơp tac xa QT đa thưc hiên đền bu san lương theo đung quy điṇ h tai thơi điêm. Tư năm 1992 (năm co quyết điṇ h thu hồi đất) đến năm 1995 (năm ông T4 chết), ông không co y kiến gi về viêc thu hồi đất va đền bu san lương. Do vây theo quy điṇ h tai Điều 32 Luât khiếu nai, tố cao năm 2005 va Điều 11 Luât khiếu nai năm 2011 thi khiếu nai cua ba H thuôc trương hơp không đươc thu ly đê giai quyết. Đồng thơi, ba H cung không phai la ngươi đai diên hơp phap đê thưc hiên khiếu nai. Việc ban hành quyết định 1396/QĐ-UBND ngày 05/6/2017 của Chủ tịch UBND T là đúng trình tự, thủ tục, đúng thẩm quyền quy định, không chấp nhận yêu cầu của bà Vũ Thị H.
- Người Đại diện hợp pháp của Chủ tịch ủy ban nhân dân TPTN và Ủy ban nhân dân TPTN trình bày: Năm 2011 UBND TPTN nhận đươc đơn khiếu nai cua ba Vu Thi ̣H. Căn cư luât khiếu nai tố cao ngay 02/12/1998; Luât khiếu nai, tố cao năm 2004; Nghi ̣điṇ h 136/2006/NĐ-CP ngay 14/11/2006 cua Chinh phu về viêc quy điṇ h chi tiết va hương dẫn thi hanh môt số điều cua Luât khiếu nai, tố cao va Luât sưa đôi bô sung môt số điều cua Luât khiếu nai, tố cao. UBND TPTN đa ban hanh Quyết điṇ h 4408/QĐ-UBND ngay 29/4/2011 về viêc giai quyết đơn khiếu nai cua ba Vu Thi ̣H, theo đo không chấp nhân nôi dung khiếu nai cua ba H khiếu nại năm 1996, UBND TPTN lấy đất cua ông Vu Viết T4 la bố đe cua ba ban cho ngươi khac không co quyết điṇ h thu hồi đất, không đền bu cho gia đinh 2 thưa đất: thưa 467 diên tich 304 m2, thưa 241 diên tich 200 m2 vi cac ly do sau:
Trươc khi thưc hiên quy hoach va cấp đất dân cư phương PĐP năm 1992, thưa đất số 467 va thưa 241 la đất do HTX nông nghiêp QT quan ly. HTX giao cho hộ ông Vu Viết T4 la xa viên canh tac.
Ngay 23/7/1992, UBND tinh BT co quyết điṇ h 285/QĐ-UB về viêc cấp đất xây dưng khu dân cư thanh phố đa lấy cua HTX QT đê lam khu dân cư vơi tông diên tich 7.956 m2 đất nông nghiêp, trong đo co thưa 467 va thưa 241.
Thưc hiên Điều III cua Quyết điṇ h, UBND thanh phố đa chi tra đầy đu tiền đền bu san lương thưc tế chưa đến ky thu hoach cho HTX QT tai lênh chi 0177918 ngay 13/8/1993. Tông số tiền la 9.103.000 đồng (trong đo tiền đền bu san lương thưc tế la 3.548.000 đồng theo Quyết điṇ h 285). HTX QT đa nhân đầy đu va không co vương mắc nao.
Tai thơi điêm nay viêc thưc hiên quy hoach, cấp đất va giao đất dân cư chiụ sư điều chinh cua Luât đất đai năm 1988. Chinh sach đền bu thưc hiên theo Quyết điṇ h số 186/HĐBT ngay 31/3/1990 cua Hôi đồng bô trương về viêc đền bu thiêt hại đất nông nghiêp, đất co rưng khi chuyên sang sư dung vao muc đich khac. UBND tỉnh co Quyết điṇ h số 398/QĐ-UBND ngay 07/12/1989 về viêc ban hanh quy điṇ h tam thơi đền bu thiêt hai đất nông nghiêp, đất co rưng khi chuyên sang muc đích khac, trong đo quy điṇ h: “…Cac tô chưc đươc cấp co thâm quyền giao đất nông nghiệp để sư dung vao muc đich khac thi phai đền bu thiêt hai san lương cho Nha nươc. Ngoai ra con phai đền bu thưc tế nhưng thanh qua lao đông co trên đất cho ngươi sư dung hơp phap như cây cối, hoa mau…”.
Như vây, trương hơp hô ông Vu Viết T4 nha nươc không quy điṇ h đươc đền bu về đất, chi đươc đền bu san lương thưc tế nhưng thanh qua lao đông co trên đất (cu thê la đền bu san lương thưc tế vu đang canh tac chưa đến ky thu hoach). Do đo, viêc ba Vu Thi ̣ H đề nghi ̣ đền bu đất nông nghiêp la không co căn cư giai quyết. HTX nông nghiệp QT phường PĐP năm 1993 đa nhân tiền đền bu san lương thưc tế đất nông nghiêp nhưng chưa chi tra cho hô ông Vu Viết T4 tai 2 thưa đất số 467 va thưa số 241.
- Người đại diện hợp pháp của Hợp tác xã dịch vụ tổng hợp nông nghiệp PĐP trình bày: Ngày 27/3/1992 UBND tỉnh BT có Quyết định số 285/QĐ-UB ngày 23/7/1992 về việc cấp đất xây dựng khu dân cư TPTN. Trong đó, thu hồi 4 khu vực với diện tích 7.956m2, trong đó có khu vực III diện tích 1.927 m2 đất nông nghiệp hạng 5 một vụ lúa do HTX nông nghiệp QT phường PĐP (nay là HTX dịch vụ tổng hợp nông nghiệp phường PĐP) (viết tắt là HTX) quản lý. Trong tổng diện tích trên có diện tích 304 m2 thửa 467 giao cho ông Vũ Viết T4 là xã viên HTX (bố đẻ bà H) và thửa 464, diện tích 287 m2 giao cho bà Vũ TP là xã viên HTX. Hai thửa đất trên nằm tại bản đồ 299 tờ số 3 phường PĐP được giao cho 2 hộ dân để canh tác. Ngày 13/8/1993 HTX đã được Phòng Tài chính thành phố thanh toán số tiền là 9.103.000đ (trong đó có tiền đền bù sản lượng thực tế cho ông Vũ Viết T4 và bà Vũ TP). Tuy nhiên thời điểm năm 1993 HTX chưa thanh toán cho 2 hộ dân. Năm 2008, HTX đã mời 2 hộ dân đến nhận tiền đền bù sản lượng được tính theo giá thóc năm 2008, hộ ông T4: 304 m2 x 2.500đ/m2 x 0,28kg= 212.800đồng; hộ bà TP: 287 m2 x 2.500đ/m2 x 0,28kg = 200.900đồng. Tuy nhiên, 2 hộ dân đều không đồng ý. Ngày 20/6/2012, HTX tiếp tục mời 2 hộ dân đến để giải quyết trả tiền đền bù sản lượng với công thức như trên tuy nhiên 2 hộ dân vẫn không nhất trí.
Nay, HTX dịch vụ tổng hợp nông nghiệp PĐP xác định việc UBND tỉnh BT có quyết định 285/QĐ-UB ngày 23/7/1992 về việc thu hồi đất nông nghiệp do HTX nông nghiệp QT quản lý để cấp đất làm khu dân cư khu vực 3 đường 74b là đúng. HTX đã nhận đầy đủ số tiền đền bù theo quy định, không có ý kiến gì. Quá trình chi trả tiền đền bù sản lượng cho các hộ dân HTX có thiếu sót khi chưa thanh toán tiền đền bù thiệt hại sản lượng cho hộ ông T4 và hộ bà TP do quá trình bàn giao giữa các đời chủ nhiệm. Số tiền 9.103.000 đồng HTX nhận từ Phòng Tài chính thành phố là tiền đền bù về sản lượng chưa đến kỳ thu hoạch, còn đất có được đền bù hay không thì phải theo quy định về pháp luật đất đai tại thời điểm thu hồi.
- Những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Bà Vũ Thị P, bà Vũ TP, bà Vũ TT, bà Vũ Thị B, bà Vũ Thị T1, anh Vũ Viết L, ông Vũ Viết T2 và bà Vũ Thị T3 TN với ý kiến của bà Vũ Thị H, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
Tòa án đã xem xét thụ lý vụ án, thu thập tài liệu chứng cứ, tổ chức phiên họp công khai tiếp cận chứng cứ và đối thoại nhưng các bên đương sự vẫn không thống nhất được với nhau về việc giải quyết vụ án nên Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên đã đưa vụ án ra xét xử để xem xét yêu cầu khởi kiện và tính hợp pháp của quyết định hành chính bị khởi kiện.
Tại phiên tòa người khởi kiện bà Vũ Thị H giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên sau khi phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng. Về nội dung vụ án, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 193 Luật tố tụng Hành chính; Nghị quyết 326/2016/UBTCQH14của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội về án, lệ phí Tòa án.
Bác yêu cầu khởi kiện của bà Vũ Thị H về yêu cầu hủy toàn bộ quyết định số 1396/QĐ-UBND ngày 05/6/2017 Chủ tịch UBND T về việc hủy bỏ hiệu lực pháp lý của khoản a Điều 1 quyết định số 4408/QĐ-UBND ngày 29/4/2011 của Chủ tịch ủy ban nhân dân TPTN.
Bà Vũ Thị H phải chịu án phí Hành chính sơ thẩm.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, quá trình xem xét tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, ý kiến của đại diện viện kiểm sát
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1].Về thủ tục tố tụng:
[1.1]. Về sự có mặt, vắng mặt tại phiên tòa: Tại phiên tòa đại diện hợp pháp của người bị kiện, những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt, căn cứ vào khoản 2 Điều 157, khoản 1 Điều 158 của Luật tố tụng hành chính, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử.
[1.2]. Về đối tượng khởi kiện, thẩm quyền giải quyết: Theo đơn khởi kiện của bà Vũ Thị H thì đối tượng khởi kiện được xác định là Quyết định số 1369/QĐ- UBND ngày 05/6/2017 của Chủ tịch UBND T về việc hủy bỏ hiệu lực pháp lý của khoản a Điều 1 Quyết định số 4408/QĐ-UBND ngày 29/4/2011 của Chủ tịch ủy ban nhân dân TPTN (Viết tắt là Quyết định 1396/QĐ-UBND). Căn cứ vào Điều 3, Điều 30, khoản 4 Điều 32 của Luật tố tụng hành Hành chính vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên.
[1.3] Về thời hiệu khởi kiện: Sau khi nhận được Quyết định số 1369/QĐ- UBND ngày 05/6/2017 của Chủ tịch UBND T, ngày 26/7/2017 bà Vũ Thị H có đơn khởi kiện đến Tòa án. Theo quy định tại Điều 116 Luật tố tụng hành chính, đơn khởi kiện còn trong thời hiệu khởi kiện nên được thụ lý giải quyết theo quy định của pháp luật.
[2].Xét nội dung yêu cầu khởi kiện, đánh giá tính hợp pháp của quyết định hành chính bị kiện và quyết định khiếu nại có liên quan, Hội đồng xét xử thấy rằng:
[2.1].Đối với quyết định 1396/QĐ-UBND - Về thẩm quyền ban hành quyết định 1396/QĐ-UBND:
Theo quy định tại khoản 2 Điều 21 Luật khiếu nại 2011, quy định về thẩm vềThẩm quyền của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh: “2. Giải quyết khiếu nại lần hai đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện, Giám đốc sở và cấp tương đương đã giải quyết lần đầu nhưng còn khiếu nại hoặc khiếu nại lần đầu đã hết thời hạn nhưng chưa được giải quyết”.
Đối chiếu với quy định pháp luật nêu trên, Chủ tịch UBND T ban hành quyết định giải quyết khiếu nại số 1396/QĐ-UBND ngày 05/6/2017 là đúng thẩm quyền.
[2.2]. Về hình thức: Quyết định số 1396/QĐ-UBND ngày 05/6/2017 thực hiện đúng mẫu số 16-KN ban hành kèm theo Thông tư 07/2013/TT-TTCP ngày 31/10/2013 quy định quy trình giải quyết khiếu nại hành chính
[2.3]. Về trình tự thủ tục ban hành:
Sau khi nhận được đơn khiếu nại của bà Vũ Thị H, Chủ tịch UBND T đã giao nhiệm vụ cho các cơ quan chuyên môn của UBND tỉnh tiến hành rà soát lại nội dung quyết định số 4408/QĐ-UBND ngày 29/4/2011 của Chủ tịch ủy ban nhân dân TPTN(Viết tắt Quyết định số 4408/QĐ-UBND). Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh T đã có văn bản số 200/STN-MT-TTr ngày 04/02/2015 về rà soát quyết định số 4408/QĐ-UBND, xác định nội dung khiếu nại của bà Vũ Thị H không có hồ sơ, tình tiết mới. Ngày 05/6/2015 Chủ tịch UBND T có văn bản số 1414/UBND-TCD về rà soát khiếu nại của công dân Vũ Thị H (viết tắt là Văn bản số 1414), xác định Quyết định số 4408/QĐ-UBND của Chủ tịch ủy ban nhân dân TPTN về việc giải quyết khiếu nại của bà Vũ Thị H không có hồ sơ, tình tiết mới, trả lời đơn khiếu nại của bà H đối với quyết định số 4408.
Không đồng ý với nội dung văn bản số 1414 của Chủ tịch UBND T, bà Vũ Thị H tiếp tục có đơn khiếu nại đối với Văn bản số 1414. Chủ tịch UBND T giao cho Thanh tra tỉnh T kiểm tra, làm rõ đơn của bà H. Căn cứ vào báo cáo kết quả kiểm tra của Thanh tra tỉnh T, ngày 05/6/2017 Chủ tịch UBND T ban hành Quyết định số 1396/QĐ-UBND là đúng tình tự, thủ tục quy định tại Luật khiếu nại 2011; Nghị định số 75/2012/NĐ-CP ngày 03/7/2012 của Chính Phủ quy định chi tiết một số điều của luật khiếu nại; Thông tư số 07/2013/TT-TTCP ngày 31/10/2013; Thông tư số 02/2016/TT-TTCP ngày 20/10/2016 của Thanh tra Chính Phủ.
[2.4].Về căn cứ ban hành quyết định 1396/QĐ-UBND:
Bà Vũ Thị H khiếu nại quyết định số 4408/QĐ-UBND ngày 29/2/2011 của Chủ tịch ủy ban nhân dân TPTN với nội dung không chấp nhận khiếu nại của bà Vũ Thị H: “Năm 1996, UBND thành phố lấy đất của ông Vũ Viết T4 là bố đẻ của bà bán cho người khác không có quyết định thu hồi đất, không đền bù cho gia đình, gồm 2 thửa đất: thửa 467, diện tích 304m2; thửa 241, diện tích 200m2”.Xét thấy: Chủ tịch ủy ban nhân dân TPTN ban hành quyết định giải quyết khiếu nại 4408 căn cứ vào Quyết định số 285/QĐ-UB ngày 23/7/1992 của UBND tỉnh BT về việc cấp diện tích 7.956m2, đất nông nghiệp thuộc HTX nông nghiệp QT, phường PĐP cho UBND TPTN xây dựng khu dân cư thành phố, phường PĐP. Quyết định số 285/QĐ-UB ngày 23/7/1992 của UBND tỉnh BT là quyết định hành chính của cơ quan Nhà nước cấp tỉnh có tác động trực tiếp đến nội dung khiếu nại của bà Vũ Thị H. Khoản 1 Điều 20 Luật khiếu nại, tố cáo năm 1998, quy định về thẩm quyền của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là cấp huyện) như sau: “1.Giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của mình.2. Giải quyết khiếu nại mà Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã, thủ trưởng cơ quan thuộc Uỷ ban nhân dân cấp huyện đã giải quyết nhưng còn có khiếu nại”.Việc UBND TPTN thụ lý giải quyết khiếu nại, ban hành quyết định số 4408/QĐ-UB là không đúng thẩm quyền,trái quy định quy định tại khoản 1 Điều 20 Luật khiếu nại, tố cáo năm 1998.
Căn cứ tài liệu, chứng cứ được thu thập trong hồ sơ vụ án, diện tích 304m2 đất tại thửa đất số 467, và diện tích 200m2 đất tại thửa đất số 241 nằm trong tổng số diện tích 7.956m2 đất nông nghiệp được UBND tỉnh BT cấp cho UBND TPTN xây dựng khu dân cư thành phố, phường PĐP tại quyết định số 285/QĐ-UB ngày 23/7/1992 của UBND tỉnh BT thuộc quyền quản lý, sử dụng của HTX nông nghiệp QT phường PĐP, không thuộc quyền quản lý, sử dụng của hộ gia đình xã viên HTX trong đó có hộ cụVũ Viết T4 và cụ PT và bà Vũ TP.
Theo quy định tại Điều 1; Điều 7 Nghị định K6/HĐBT ngày 31/5/1990 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ), quy định về đền bù thiệt hại đất nông nghiệp, đất có rừng khi chuyển sang sử dụng vào mục đích khác. Nhà nước không đền bù thiệt hại về đất nông nghiệp cho người sử dụng đất, mà người sử dụng đất có nguồn gốc chuyển mục đích sử dụng từ đất nông nghiệp, đất có rừng sang mục đích sử dụng khác phải đến bù thiệt hại về đất nông nghiệp, đất có rừng cho ngân sách Nhà nước. Nhà nước chỉ bồi thường các tài sản trên mặt đất và tài sản trong lòng đất (các công trình ngầm) cho chủ sử dụng đất hợp pháp.
Quyết định số 285/QĐ-UB ngày 23/7/1992 của UBND tỉnh BT cấp diện tích 7.956m2 đất nông nghiệp cho UBND TPTN xây dựng khu dân cư thành phố, phường PĐP thuộc HTX nông nghiệp QTquản lý. Hộ xã viên ông Vũ Viết T4 bà PT (bố đẻ bà H), được HTX giao nhận khoán hai thửa ruộng số 467 diện tích 304m2; thửa số 241 diện tích 200m2, quyền lợi của gia đình bà H chỉ được Nhà nước bồi thường các tài sản trên mặt đất là sản lượng thóc chưa được thu hoạch theo quy định. Không bồi thường thiệt hại về đất nông nghiệp cho hộ xã viên, do đó khôngảnh hưởng, xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của bà Vũ Thị H là người khiếu nại. Việc bà H khiếu nại đối với quyết định 285/QĐ-UB ngày 23/7/1992 của UBND tỉnh BT, là không có quyền khiếu nại quy định tại đoạn 1 khoản 1 Điều 1 Luật khiếu nại tố cáo năm 1998.
Đối với Quyết định 4408/QĐ-UBND:
Về thời hiệu khiếu nại quyết định 4408: Tại công văn số 47/CV-TC ngày 12/7/2006 của Phòng Tài chính TPTN, báo cáo UBND TPTN về việc: Giải quyết đơn đề nghị đền bù đất nông nghiệp của bà Vũ Thị H, có ghi: “ 2.Không công nhận đơn khiếu nại của bà Vũ Thị H cư trú tại tổ Y, phường ĐQ, TPTN vì hết thời hiệu để giải quyết: Năm 1993 bố đẻ bà H, em gái bà H bị thu hồi đất nhưng không có bất cứ ý kiến gì về việc đòi bồi thường diện tích đất của gia đình được đưa vào quy hoạch. Đến ngày 20/7/2001 bà H mới có đơn đề nghị gửi các cấp, các ngành. Tuy nhiên trong đơn của bà H có viết: “Gia đình bà đã nhiều lần đề nghị lên các cấp các ngành nhưng không được giải quyết”….
Theo quy định tại Điều 31 Luật khiếu nại, tố cáo năm 1998, quy định:
“Điều 31:Thời hiệu khiếu nại là 90 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định hành chính hoặc biết được có hành vi hành chính.
Trong trường hợp vì ốm đau, thiên tai, địch hoạ, đi công tác, học tập ở nơi xa hoặc vì những trở ngại khách quan khác mà người khiếu nại không thực hiện được quyền khiếu nại theo đúng thời hiệu, thì thời gian có trở ngại đó không tính vào thời hiệu khiếu nại”.
Như vậy, bà Vũ Thị H xác định năm 1993 gia đình bà bị Nhà nước thu hồi đất, ngày 20/7/2001 bà H có đơn đề nghị, khiếu nại về việc đòi bồi thường diện tích đất của gia đình được đưa vào quy hoạch. Đối chiếu với quy định trên thì đơn khiếu nại của bà Vũ Thị H đã hết thời hiệu khiếu nại. Do đó, việc Chủ tịch ủy ban nhân dân TPTN ban hành quyết định số 4408, về việc giải quyết khiếu nại của bà Vũ Thị H có nội dung đối với quyết định số 285/QĐ-UB ngày 23/7/1992 của UBND tỉnh BT (nay là tỉnh T), về việc cấp đất cho UBND TPTN xây dựng khu dân cư thành phố, phường PĐP nêu trên là không đúng thẩm quyền, không được thụ lý giải quyết theo quy định tại khoản 1, khoản 4 Điều 32 Luật Khiếu nại tố cáo năm 1998 và sửa đổi bổ sung luật khiếu nại tố cáo năm 2005.
Do đó, Chủ tịch UBND T ban hành quyết định số 1396/QĐ-UBND ngày 05/6/2017 về việc hủy bỏ hiệu lực pháp lý của khoản a, Điều 1 quyết định số 4408/QĐ-UBND ngày 29/4/2011 của Chủ tịch UBND TPTN là có căn cứ, đúng pháp luật.
Tuy nhiên, Chủ tịch UBND T căn cứ vào Luật đất đai năm 1993; Luật đất đai năm 2003; Luật đất đai năm 2013 làm căn cứ ban hành quyết định là không phù hợp với các văn bản quy phạm pháp luật tại thời điểm UBND tỉnh BT (nay là T) ban hành quyết định 285/QĐ-UB ngày 23/7/1992. Nhưng không ảnh hưởng đến quyền lợi và nghĩa vụ của người khiếu nại, không làm thay đổi bản chất nội dung quyết định, Chủ tịch UBND T cần rút kinh nghiệm.
Từ những căn cứ nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy không có cơ sở để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Vũ Thị H về việc yêu cầu hủy Quyết định số 1396/QĐ-UBND ngày 05/6/2017 của Chủ tịch UBND T.
[3] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên có căn cứ Hội đồng xét xử chấp nhận.
[4].Về án phí: Bà H là người cao tuổi được miễn án phí hành chính sơ thẩm.
[5]. Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản ản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ: Điều 30, Điều 32, Điều 116, điểm b khoản 2 Điều 193 của Luật tố tụng hành chính năm 2015; Luật khiếu nại, tố cáo năm 1998, Luật khiếu nại 2011; Thông tư số 07/2013/TT-TTCP ngày 31/10/2013 của Thanh tra chính phủ quy định quy trình giải quyết khiếu nại hành chính; Thông tư 02/2016/TT-TTCP ngày 20/10/2016 của Thanh tra chính phủ sửa đổi bổ sung một số điều của Thông tư 07/2013/TT- TTCP ngày 31/10/2013 của Thanh tra chính phủ quy định quy trình giải quyết khiếu nại hành chính;Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí lệ phí tòa án.
Tuyên xử:
1. Bác yêu cầu khởi kiện của bà Vũ Thị H về yêu cầu hủy Quyết định số 1396/QĐ-UBND ngày 05/6/2017 của Chủ tịch UBND T về việc hủy bỏ hiệu lực pháp lý của khoản a, Điều 1 Quyết định số 4408/QĐ-UBND ngày 29/4/2011 của Chủ tịch ủy ban nhân dân TPTN 2. Về án phí: Bà Vũ Thị H được miễn án phí hành chính sơ thẩm, trả lại bà H 300.000 (ba trăm nghìn) đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0008520 ngày 27/02/2018 tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh T.
3. Quyền kháng cáo: Đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết công khai.
Bản án về khiếu quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai số 01/2021/HC-ST
Số hiệu: | 01/2021/HC-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thái Nguyên |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Ngày ban hành: | 01/02/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về