Bản án về khiếu kiện quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 04/2020/HC-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 04/2020/HC-PT NGÀY 31/12/2020 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH

Ngày 25 tháng 12 năm 2020, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên, mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số: 03/2020/TLPT- HC ngày 01 tháng 10 năm 2020 về việc khiếu kiện quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Do bản án hành chính sơ thẩm số 01/2020/HC-ST ngày 31/7/2020 của Toà án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên bị kháng cáo của người bị kiện. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 04/2020/QĐXXST-HC ngày 01 tháng 12 năm 2020, giữa các đương sự:

- Người khởi kiện: Anh Hoàng Hữu P, sinh năm 1987 Địa chỉ: Tổ X, phường TT, TPTN, tỉnh Thái Nguyên. Có mặt.

- Người bị kiện: Trưởng Công an TPTN, tỉnh Thái Nguyên Địa chỉ: Số K, đường HVT, TPTN, tỉnh Thái Nguyên.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Phạm Thanh H – chức vụ Trưởng công an TPTN, tỉnh Thái Nguyên Người đại diện theo ủy quyền: Ông Lê Xuân T – chức vụ Phó trưởng công an TPTN, tỉnh Thái Nguyên (Văn bản ủy quyền ngày 21/02/2020). Có đơn xin xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo nội dung đơn khởi kiện, bản tự khai, quá trình giải quyết vụ án người khởi kiện trình bày:

Khoảng 7 giờ 30 phút ngày 29/4/2019 tại Phòng số Y, tòa A chung cư TB thuộc tổ Z, phường HVT, TPTN, tỉnh Thái Nguyên; anh Hoàng Hữu P nói với chị Nguyễn Thị VA ( là vợ của anh P) là sáng đưa con gái tên là Hoàng TA, sinh ngày 12/2/2016 về chơi bên nhà ông bà nội (tức bố mẹ đẻ của anh P) tại Tổ X, phường TT,TPTN vì từ tết đến giờ chị VA không về nhà bố mẹ đẻ của anh, nhưng chị VA phản ứng không đồng ý và cho rằng cháu Hoàng TA đang ốm, ngay sau đó chị VA thay quần áo cho cháu Hoàng TA để đưa cháu đi chơi, thấy vậy anh P không cho đi, nhưng chị VA vẫn lôi cháu Hoàng TA đi, anh P giữ cháu Hoàng TA lại và bảo với chị VA ở nhà không đi đâu hết, lúc này chị VA quay vào ngồi trong giường. Một lúc sau chị VA đi ra khỏi nhà, đi đâu thì anh không biết. Sự việc xảy ra ở trong nhà anh chị như vậy và kết thúc. Anh không xô sát, giằng co và không đánh chị VA. Chiều ngày 03/5/2019 chị VA vào bệnh viện GTTN nhập viện, chiều ngày 10/5/2019 thì ra viện. Anh không biết chị VA vào viện điều trị bệnh gì. Đến ngày 08/5/2019 Công an phường HVT, TPTN gọi anh đến để làm việc và yêu cầu anh viết bản tự khai và cán bộ Công an phường HVT, TPTN đã lập biên bản ghi lời khai yêu cầu anh trình bầy sự việc xảy ra sáng ngày 29/4/2019 giữa anh và chị VA. Sau đó Công an TPTN đã lập biên bản ghi lời khai và cũng yêu cầu anh Hoàng Hữu P trình bày lại toàn bộ nội dung sự việc xẩy ra ngày 29/4/2019 giữa anh P và chị VA.

Ngày 24/7/2019 anh P nhận được quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 0036985 của Công an TPTN, lý do xử phạt: Gây thương tích cho thành viên trong gia đình; tổng mức tiền phạt là 1.250.000 đồng (một triệu hai trăm năm mươi nghìn đồng).

Không đồng ý với quyết định xử phạt vi phạm hành chính của công an TPTN, ngày 29/7/2019 anh P có đơn khiếu nại về Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 0036985/QĐ-XPHC của Công an TPTN với nội dung: Quyết định xử phạt hành chính không có ngày; không ghi thời hiệu của quyết định, không ghi rõ áp dụng văn bản về xử phạt. Quyết định xử phạt nói trên không đúng, trái với quy định của pháp luật vì anh không có hành vi gây thương tích cho thành viên trong gia đình.

Ngày 03/10/2019 Trưởng Công an TPTN ra quyết định số 3022/QĐ- CATP về việc giải quyết khiếu nại (lần đầu) với nội dung :

"Điều 1: Nội dung khiếu nại của ông Hoàng Hữu P về quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 0036985/QĐ-XPHC của đồng chí Lê Xuân T- Phó trưởng Công an TPTN đối với ông P về hành vi " Gây thương tích cho thành viên gia đình" là đúng một phần, cụ thể:

- Nội dung ông P khiếu nại về hành vi vi phạm hành chính nêu trong quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 0036985/QĐ-XPHC của Công an TPTN là sai.

- Nội dung ông P khiếu nại Quyết định xử phạt hành chính số 0036985/QĐ-XPHC không ghi ngày ban hành quyết định, không ghi ngày tháng năm Quyết định có hiệu lực thi hành là đúng.

Điều 2. Sửa đổi, bổ sung các nội dung ghi thiếu trong Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 0036985/QĐ-XPHC của đồng chí Lê Xuân T- Phó trưởng Công an TPTN theo biểu mẫu quy định." Không nhất trí với quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 0036985/QĐ-XPHC và quyết định giải quyết khiếu nại số 3022/QĐ-CATP ngày 03/10/2019 của Trưởng Công an TPTN. Vì cho rằng Quyết định xử phạt nói trên không đúng, trái với quy định của pháp luật, vi phạm về thẩm quyền, trình tự thủ tục ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính, vi phạm về nội dung vì anh không có hành vi gây thương tích cho thành viên trong gia đình. Do đó, Ngày 22/ 10/2019 anh P có đơn khởi kiện vụ án hành chính gửi đến Toà án nhân dân thành phố Thái Nguyên đề nghị Toà án nhân dân thành phố Thái Nguyên tuyên hủy Quyết định giải quyết khiếu nại số 3022/QĐ-CATP ngày 03/10/2019 và Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 0036985/QĐ-XPHC tháng 7/2019 của Trưởng Công an TPTN, tỉnh Thái Nguyên.

Toà án nhân dân thành phố Thái Nguyên đã xem xét thụ lý vụ án, thu thập tài liệu chứng cứ, tổ chức phiên họp công khai tiếp cận chứng cứ và đối thoại. Nhưng người đại diện theo ủy quyền của Trưởng công an TPTN không có văn bản nêu ý kiến, không tham gia phiên họp công khai tiếp cận chứng cứ và đối thoại, tại phiên tòa sơ thẩm có đơn xin xử vắng mặt.

Với nội dung nêu trên, Bản án hành chính sơ thẩm số 01/2020/HC-ST ngày 31/7/2020 của Toà án nhân dân thành phố Thái Nguyên đã quyết định: Căn cứ Điều 3; khoản 1 Điều 30; khoản 1 Điều 31; Điều 115; Điều 116; khoản 1 Điều 157; Điều 158; Điều 193; Điều 204; Điều 206 ; Điều 348 Luật tố tụng hành chính; khoản 4 Điều 39; Điều 54; Điều 56; Điều 57; Điều 58; Điều 59; khoản 1 Điều 63; Điều 68 Luật xử lý vi phạm hành chính; Nghị định 97/2017/NĐ-CP ngày 18/8/2017 của Chính Phủ; Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội, phòng chống tệ nạn xã hội, phòng cháy và chữa cháy, phòng, chống bạo lực gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Chấp nhận đơn yêu cầu khởi kiện của anh Hoàng Hữu P về việc hủy Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 0036985/QĐ-XPHC ngày 16/7/2019 và Quyết định giải quyết khiếu nại số 3022 ngày 03/10/2019 của Trưởng Công an TPTN. Hủy Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 0036985/QĐ-XPHC ngày 16/7/2019 và Quyết định giải quyết khiếu nại số 3022 ngày 03/10/2019 của Trưởng Công an TPTN, tỉnhThái Nguyên.

Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên về án phí hành chính sơ thẩm và quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật Ngày 17/8/2020 Trưởng công an TPTN có đơn kháng cáo toàn bộ nội dung bản án số 01/2020/HC-ST ngày 31/7/2020 của Toà án nhân dân thành phố Thái Nguyên, đề nghị cấp phúc thẩm: Hủy các quyết định tại bản án số 01/2020/HC-ST ngày 31/7/2020 của Toà án nhân dân thành phố Thái Nguyên “v/v khiếu kiện quyết định hành chính”; Tổ chức xét xử phúc thẩm đối với vụ án hành chính thụ lý số 04/2019/TLST-HC ngày 05/12/2019 của Toà án nhân dân thành phố Thái Nguyên theo đơn kiện của anh Hoàng Hữu P sinh năm 1987, địa chỉ : Tổ X, phường TT, TPTN, tỉnh Thái Nguyên đối với Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 0036985/QĐ-XPHC ngày 16/7/2019 và Quyết định giải quyết khiếu nại số 3022/QĐ-CATP ngày 03/10/2019 của Công an TPTN với lý do: Quyết định xử phạt vi phạm hành chính 0036985/QĐ-XPHC ngày 16/7/2019 của Công an TPTN ban hành chỉ sai sót về mặt hình thức bao gồm ngày tháng ghi trên quyết định, ngày quyết định có hiệu lực, không trái thẩm quyền theo quy định tại khoản 4 Điều 39, Điều 54 Luật xử lý vi phạm hành chính; căn cứ ra quyết định xử phạt không ảnh hưởng đến nội dung hành vi vi phạm bị đưa ra xử phạt; Công an TPTN đã ra quyết định sửa đổi bổ sung quyết định xử phạt vi phạm hành chính theo đúng quy định pháp luật. Việc ông Lê Xuân T ký ban hành các quyết định xử phạt hành chính số 0036985/QĐ-XPHC ngày 16/7/2019 là theo quyết định giao quyền số 4068/QĐ-CATP ngày 28/12/2018; ký quyết định sửa đổi bổ sung quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 01/QĐ-SĐBSXP ngày 15/10/2019 theo quyết định giao quyền số 3120/QĐ-GQXP ngày 11/10/2019. Việc ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính là đúng tình tự thủ tục theo Điều 63 Luật xử phạt vi phạm hành chính. Việc tiến hành giải quyết khiếu nại quyết định xử phạt vi phạm hành chính của Trưởng công an TPTN là đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật, đảm bảo tính khách quan công bằng.

Tại phiên tòa phúc thẩm, người bị kiện Trưởng công an TPTN xin xử vắng mặt. Người khởi kiện anh Hoàng Hữu P giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến về hành vi tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét, Thư ký phiên tòa thực hiện đúng quy định. Đề nghị HĐXX Áp dụng khoản 2 Điều 241 Luật tố tụng hành chính; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Chấp nhận một phần kháng cáo của người bị kiện.Sửa một phần bản án số 01/2020/HC-ST ngày 31/7/2020 của Toà án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện . Hủy toàn bộ các quyết định số 0036985/QĐ-XPHC ngày 16/7/2019 về việc xử phạt vi phạm hành chính đối với anh Hoàng Hữu P; Quyết định số 01/QĐ-SĐQĐXP ngày 15/10/2019 sửa đổi, bổ sung quyết định xử phạt vi phạm hành chính; Quyết định giải quyết về việc khiếu nại số 3022 ngày 03/10/2019 của Trưởng Công an TPTN. Người kháng cáo không phải chịu án phí hành chính phúc thẩm, được hoàn trả lại tạm ứng án phí đã nộp.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên

[1]. Về tố tụng:

[1.1] Đối tượng khởi kiện là Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 0036985/QĐ-XPHC ngày 16/7/2019 và Quyết định giải quyết về việc khiếu nại số 3022/QĐ-CATP ngày 03/10/2019 của Trưởng Công an TPTN. Sau khi nhận được quyết định giải quyết về việc khiếu nại số 3022/QĐ-CATP, ngày 22/10/2020 anh P nộp đơn khởi kiện là còn thời hiệu. Căn cứ Điều 30, Điều 31, Điều 116, Tòa án cấp sơ thẩm thụ lý và giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền.

[1.2] Đơn kháng cáo của Trưởng công an TPTN làm trong hạn luật định nên theo quy định tại Điều 206 luật tụng hành chính đủ điều kiện để xem xét theo trình tự phúc thẩm

[1.3] Tại phiên tòa, Đại diện theo ủy quyền của người bị kiện có đơn xin xử vắng mặt. Căn cứ vào khoản 4 Điều 225 Luật tố tụng hành chính, Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt người bị kiện.

[2] Xét nội dung kháng cáo của Trưởng Công an TPTN đề nghị hủy bản án hành chính sơ thẩm số 01/2020/HC-ST ngày 31/7/2020 của Toà án nhân dân thành phố Thái Nguyên.

[2.1] Đối với kháng cáo về ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên được nêu trong mục nội dung vụ án.

Trưởng công an TPTN cho rằng: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên về việc ông Lê Xuân T ký Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 0036985/QĐ-XPHC ngày 16/7/2019 căn cứ theo quyết định giao quyền số 3120 ngày 11/10/2019 là không chính xác. Ông Lê Xuân T ký Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 0036985/QĐ-XPHC ngày 16/7/2019 căn cứ Quyết định giao quyền số 4068/QĐ-CATP ngày 28/12/2018 của Trưởng công an TPTN.

Việc không ghi nội dung Quyết định giao quyền trên Quyết định 0036985/QĐ- XPHC ngày 16/7/2019 chỉ là sai sót về hình thức, không sai về thẩm quyền.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên cũng nhận định người khởi kiện là ông Hoàng Hữu P không thừa nhận hành vi gây thương tích cho chị Nguyễn Thị VA nên không có cơ sở xác định ông Hoàng Hữu P gây thương tích cho chị Nguyễn Thị VA. Tuy nhiên căn cứ các chứng cứ tài liệu thu thập có trong hồ sơ tố giác tội phạm do cơ quan cảnh sát điều tra công an TPTN chuyển đến có đủ căn cứ xác định ông Hoàng hữu P dùng tay đánh gây thương tích tổn hại 3% sức khỏe cho chị Nguyễn Thị VA nên hành vi của anh P không đủ cấu thành tội phạm Cố ý gây thương tích theo quy định tại Điều 134 Bộ luật hình sự. Việc xác định ông P có hành vi gây thương tích hay không, không đánh giá chỉ dựa trên lời khai báo của anh P như nội dung đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên nhận định.

Hội đồng xét xử thấy: Đây là ý kiến phân tích của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên về việc giải quyết vụ án, Toà án nhân dân thành phố Thái Nguyên tóm tắt trình bày lại nên Hội đồng xét xử không đánh giá xem xét.

[2.2] Trưởng công an TPTN cho rằng trong mục nhận định của Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên “về hình thức của Quyết định xử phạt hành chính”, đã nhận định “ngày 15/10/2019 ông Lê Xuân T đã ký Quyết định số 01/QĐ-SĐBSXP bổ sung vào Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 0036985/QĐ-XPHC, căn cứ Quyết định về việc giao quyền xử phạt vi phạm hành chính 3120 ngày 11/10/2019” là không đúng, trong quyết định giao quyền số 3120 ngày 11/10/2019 Trưởng công an TPTN giao quyền cho ông Lê Xuân T phó trưởng công an TPTN thực hiện việc xử phạt hành chính và có hiệu lực từ ngày 11/10/2019, thay thế quyết định giao quyền số 2120 ngày 26/7/2019 và quyết định giao quyền số 4068 ngày 28/12/2018. Do vậy khi ban hành Quyết định 01/QQĐ-SĐBSXP quyết định giao quyền số 3120 đã có hiệu lực và là căn cứ để ông Lê Xuân T được ký Quyết định 01/QĐ-SĐBSXP, công an thành phố không bổ sung quyết định giao quyền 3120 vào quyết định xử phạt vi phạm hành chính Hội đồng xét xử thấy rằng: Về hình thức của Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 0036985/QĐ- XPHC tháng 7/2019 của Trưởng Công an TPTN chưa điền đầy đủ nội dung theo mẫu quyết định số 02/QĐ-XPHC ban hành kèm theo Thông tư số 07/2019/TT-BCA ngày 20/3/2019 và quy định tại Điều 68 của Luật xử lý vi phạm hành chính. Cụ thể: Không ghi ngày ban hành Quyết định; không ghi ngày, tháng, năm hiệu lực thi hành của Quyết định. Tuy nhiên ngày 15/10/2019 ông Lê Xuân T- Phó Trưởng Công an TPTN đã ký Quyết định số 01/QĐ-SĐQĐXP sửa đổi, bổ sung quyết định xử phạt vi phạm hành chính là phù hợp với Điều 6a –Nghị định số 97/2017/NĐ-CP ngày 18/8/2017 của Chính phủ về sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định 81/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013.

[2.3] Đối với kháng cáo cho rằng: Về thẩm quyền, căn cứ ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính, Toà án nhân dân thành phố Thái Nguyên nhận định ông Lê Xuân T ký quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 0036985/QĐ- XPHC ngày 16/7/2019 trước khi được giao quyền là không chính xác, vì thực tế ông Lê Xuân T được giao quyền xử phạt hành chính số 0036985/QĐ-XPHC ngày 16/7/2019 căn cứ theo quyết định giao quyền số4068/QĐ-CATP ngày 28/12/2018 của Trưởng Công an TPTN. Việc ghi thiếu quyết định trên biểu mẫu Quyết định chỉ là sai sót về hình thức, ông Lê Xuân T ký không sai thẩm quyền quy định tại khoản 4 Điều 39, Điều 54 Luật xử phạt vi phạm hành chính.

Hội đồng xét xử thấy rằng: Tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 0036985/QĐ- XPHC ngày 16/7/2019 do ông Lê Xuân T, chức vụ Phó trưởng Công an TPTN ký đã không ghi nội dung căn cứ Quyết định về việc giao quyền XPVPHC nào. Nếu Quyết định số 01/QĐ-SĐQĐXP ngày 15/10/2019 sửa đổi, bổ sung quyết định xử phạt vi phạm hành chính, Trưởng Công an TPTN thì xác định ngày Phó trưởng Công an TPTN ký quyết định số 0036985/QĐ- XPHC là ngày 16/7/2019 và được Trưởng Công an TPTN giao quyền XPVPHC tại quyết định số 3120 ngày 11/10/2019. Căn cứ khoản 1 Điều 24 và khoản 4 Điều 39 Luật xử phạt vi phạm hành chính thì Trưởng công an TPTN là người có thẩm quyền ký Quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Và có thể giao cho cấp phó thực hiện thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính theo Điều 54 Luật xử phạt vi phạm hành chính.

Theo khoản 4 Điều 6a Nghị định số 97/2017/NĐ-CP ngày 18/8/2017 của Chính phủ quy định: “Quyết định sửa đổi, bổ sung, văn bản đính chính quyết định về xử lý vi phạm hành chính là những văn bản gắn liền với quyết định về xử lý vi phạm hành chính đã được ban hành và được lưu trong hồ sơ xử lý vi phạm hành chính.” Như vậy, nhận định của bản án sơ thẩm đã nêu “Phó Trưởng Công an TPTN ký quyết định xử phạt vi phạm hành chính trước ngày được giao quyền” là đúng.

[2.4] Về trình tự, thủ tục ban hành quyết định xử phạt hành chính: Trưởng công an TPTN kháng cáo cho rằng việc ban hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với ông Hoàng Hữu P là căn cứ theo hồ sơ vụ việc – tố giác về tội phạm do cơ quan CSĐT Công an TPTN chuyển đến sau khi đã ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Đối với trường hợp này không cần lập biên bản vi phạm hành chính quy định tại Điều 63 Luật xử phạt vi phạm hành chính.

Hội đồng xét xử thấy: Anh Hoàng Hữu P bị Trưởng Công an TPTN xử phạt vi phạm hành chính về hành vi: Đánh đập, gây thương tích cho thành viên gia đình, được quy định tại khoản 1 Điều 49 Nghị định 167, mức tiền phạt:

1.250.000 đồng khi xác định anh Hoàng Hữu P không có hành vi vi phạm pháp luật hình sự, nhưng có hành vi vi phạm hành chính được phát hiện qua nghiệp vụ điều tra theo trình tự thủ tục tố tụng hình sự. Tuy nhiên cán bộ thực thi, thi hành nhiệm vụ xác định anh P có hành vi vi phạm hành chính đã không lập biên bản vi phạm hành chính đối với anh Hoàng Hữu P. Do đó việc Trưởng Công an TPTN ban hành quyết định Xử phạt vi phạm hành chính đối với anh Hoàng Hữu P không có biên bản vi phạm hành chính là không đúng trình tự, thủ tục quy định tại Điều 56, Điều 58 Luật xử lý vi phạm hành chính.

“Điều 56. Xử phạt vi phạm hành chính không lập biên bản

1. Xử phạt vi phạm hành chính không lập biên bản được áp dụng trong trường hợp xử phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền đến 250.000 đồng đối với cá nhân, 500.000 đồng đối với tổ chức và người có thẩm quyền xử phạt phải ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính tại chỗ.

Trường hợp vi phạm hành chính được phát hiện nhờ sử dụng phương tiện, thiết bị kỹ thuật, nghiệp vụ thì phải lập biên bản”.

Khoản 1 Điều 58.Lập biên bản vi phạm hành chính 1. Khi phát hiện vi phạm hành chính thuộc lĩnh vực quản lý của mình, người có thẩm quyền đang thi hành công vụ phải kịp thời lập biên bản, trừ trường hợp xử phạt không lập biên bản theo quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật này.

Trường hợp vi phạm hành chính được phát hiện nhờ sử dụng phương tiện, thiết bị kỹ thuật, nghiệp vụ thì việc lập biên bản vi phạm hành chính được tiến hành ngay khi xác định được tổ chức, cá nhân vi phạm”.

[2.5] Về nội dung của Quyết định xử phạt vi phạm hành chính: Trưởng công an TPTN cho rằng Toà án nhân dân thành phố Thái Nguyên căn cứ vào lý do cơ quan CSĐT công an TPTN ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự “Hành vi của Hoàng Hữu P không cấu thành tội phạm cố ý gây thương tích quy định tại Điều 134 Bộ luật hình sự” để đưa ra nhận định rằng Cơ quan điều tra xác định anh Hoàng Hữu P không có ý thức chủ quan xâm hại sức khỏe người khác hoặc anh P không có hành vi vi phạm pháp luật là không đúng. Cơ quan điều tra căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ vụ việc xác định Hoàng Hoàng Hữu P có hành vi gây thương cho chị Nguyễn Thị VA, căn cứ gồm: Biên bản ghi lời khai ngày 04/5/2019, 09/5/2019/ 20/5/2019 của bị hại Nguyễn Thị VA; Bản kết luận giám định về thương tích của Trung tâm pháp y tỉnh Thái Nguyên ngày 29/5/2019; Biên bản ghi lời khai của cháu Hoàng TA ngày 10/5/2019; Biên bản ghi lời khai của Bùi Thị TR ngày 05/5/2019. Tuy nhiên hậu quả do hành vi của P gây thương tích làm tổn hại 3% sức khỏe cho chị VA không đủ cấu thành tội phạm “cố ý gây thương tích” quy định tại Điều 134 Bộ luật hình sự. Căn cứ khoản 2 Điều 157 Bộ luật hình sự, cơ quan CSĐT công an TPTN ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự và chuyển hồ sơ đến công an TPTN để xử phạt vi phạm hành chính.

Hội đồng xét xử thấy: Anh Hoàng Hữu P cho rằng ngày 29/4/2019 anh không có hành vi đánh đập gây thương tích cho chị Nguyễn Thị VA, nên anh không có hành vi đánh đập gây thương tích cho thành viên gia đình. Ngày 03/5/2019 bà N (là mẹ đẻ của chị Nguyễn Thị VA) có đơn trình báo, ngày 4/5/2019 bà N có đơn đề nghị khởi tố vụ án gửi Công an phường HVT, TPTN về việc anh Hoàng Hữu P đã đánh gây thương tích cho chị Nguyễn Thị VA. Quá trình điều tra Công an TPTN đã điều tra xác minh: Hồi 15 giờ 20 phút, ngày 04/5/2019 tại khoa ngoại bệnh viện GTTN, Công an phường HVT , TPTN lập biên bản xác minh thương tích đối với chị Nguyễn Thị VA, kết quả xác minh thể hiện: "Bệnh nhân Nguyễn Thị VA, sinh năm 1987, nhập viện tại khoa ngoại bệnh viện GTTN vào lúc 14h 10’ ngày 03/5/2019 trong tình trạng: “Tỉnh; tiếp xúc tốt; Glassgon 15 điểm; mệt mỏi, đau đầu, chóng mặt, buồn nôn, không nôn, không yểu liệt tay chân. Vùng đầu và vùng ngực hai bên sờ nắn, thăm khám đau nhiều, khám không có vết thương, không có vết xây sát; không bầm tím vùng đầu và ngực; tim nhịp đều; phổi hai bên rì rào phế nang rõ; bụng mền nắn đau tức thượng vị; không có phản ứng thành bụng; không có vết bầm tím; các cơ quan khác chưa phát hiện bất thường; Sơ bộ chuẩn đoán lúc vào: Theo dõi chấn động não, theo dõi chấn thương ngực. Hiện tại tỉnh, sốt nhẹ 37,5 độ C , không ho, mệt mỏi, cảm giác khó thở, đau tức ngực trái, tim đều , phổi thông khí tốt, huyết áp 90/60mmhg. Chuẩn đoán sốt chưa rõ nguyên nhân, đang chờ hội chuẩn và xét nghiệm".

Tại bệnh án ngoại khoa của bệnh viện GTTN chuẩn đoán ra viện: “Chị Nguyễn Thị VA tổn thương nông tác động nhiều vùng cơ thể, chấn động não, viêm đường tiết niệu, dị ứng chưa rõ nguyên nhân”. Công an phường HVT lập biên bản ghi lời khai của những người làm chứng chị Bùi Thị TR và chị Nguyễn Thị MH cùng sinh sống tại căn hộ liền kề với căn hộ của anh P và chị VA. Chị MH và chị TR đều khẳng định ngày 29/4/2019 không được chứng kiến sự việc xảy ra giữa anh P và chị VA và không nhìn thấy anh Hoàng Hữu P đánh chị Nguyễn Thị VA. Ngày 10/5/2019 Công an phường HVT, TPTN đã tiến hành lập biên bản ghi lời khai của cháu Hoàng TA sinh ngày 12/2/2016 (03 tuổi 2 tháng 28 ngày) Cháu Hoàng TA khai “mẹ đi nằm viện là do bố P đánh’. Ngày 27/5/2019 Cơ quan cảnh sát điều tra công an TPTN ra quyết định trưng cầu giám định thương tích đối với chị Nguyễn Thị VA. Ngày 29/5/2019 Trung tâm pháp y kết luận tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 3%.

Ngày 24/6/2019 Cơ quan cảnh sát điều tra công an TPTN ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự với lý do “Hành vi của Hoàng Hữu P “không cấu thành tội phạm Cố ý gây thương tích" quy định tại Đều 134 BLHS.

Như vậy, ngoài lời khai của cháu TA (03 tuổi 2 tháng 28 ngày), thì không có ai nhìn thấy anh P đánh chị VA. Bệnh án khoa ngoại bệnh viện GTTN vào lúc 14h 10’ ngày 03/5/2019 cũng không thể hiện chị VA có các thương tích do bị đánh. Nhưng tại bệnh án ngoại khoa của bệnh viện GTTN chuẩn đoán ra viện thì có kết luận: “Chị Nguyễn Thị VA tổn thương nông tác động nhiều vùng cơ thể, chấn động não, viêm đường tiết niệu, dị ứng chưa rõ nguyên nhân”. Đối với kết quả khám lâm sang ban đầu và kết luận khi ra viện không đủ căn cứ để xác định chị VA đã bị anh P đánh gây thương tích với tổn hại là 3% để làm căn cứ xử phạt hành chính đối với anh P. Nhận định của bản án sơ thẩm về việc không đủ cơ sở xác định anh Hoàng Hữu P có hành vi đánh đập, gây thương tích cho chị Nguyễn Thị VA là có căn cứ chấp nhận.

[2.6] Xét tính hợp pháp của Quyết định giải quyết khiếu nại số 3022/QĐ- CATP ngày 03/10/2019 về việc giải quyết khiếu nại của Trưởng Công an TPTN.

Về thẩm quyền ban hành, trình tự thủ tục ban hành quyết định, Trưởng Công an TPTN đã tuân thủ đúng quy định luật khiếu nại. Tuy nhiên, căn cứ vào nội dung phân tích tính hợp pháp của các quyết định số 0036985/QĐ-XPHC ngày 16/7/2019 và quyết định số 01/QĐ-SĐQĐXP ngày 15/10/2019 của Trưởng Công an TPTN nêu trên, thì Quyết định giải quyết khiếu nại số 3022 ngày 03/10/2019 của Trưởng công an TPTN cũng không đúng quy định của pháp luật.

[3] Quá trình giải quyết vụ án Tòa án cấp sơ thẩm chưa xử lý, giải quyết đối với quyết định có liên quan là quyết định số 01/QĐ-SĐQĐXP ngày 15/10/2019 sửa đổi, bổ sung quyết định xử phạt vi phạm hành chính theo điểm b khoản 2 Điều 193 LTTHC, là thiếu sót, chưa giải quyết triệt để yêu cầu khởi kiện. Nên cần chấp nhận một phần kháng cáo của người bị kiện sửa một phần bản án hành chính sơ thẩm số 01/2020/HC-ST ngày 31/7/2020 của Toà án nhân dân thành phố Thái Nguyên.

[4] Kháng cáo của Trưởng công an TPTN về việc đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án hành chính sơ thẩm số 01/2020/HC-ST ngày 31/7/2020 của Toà án nhân dân thành phố Thái Nguyên là không có căn cứ để chấp nhận.

[5] kiến phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ, cần được chấp nhận.

[6] Về án phí: Do sửa bản án sơ thẩm nêu trên nên Trưởng công an TPTN không phải chịu án phí phúc thẩm.

Vì các lẽ nêu trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 241, Điều 349 Luật tố tụng hành chính năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Chấp nhận một phần kháng cáo của người bị kiện. Sửa một phần bản án số 01/2020/HC-ST ngày 31/7/2020 của Toà án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên.

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của anh Hoàng Hữu P

2. Hủy Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 0036985/QĐ-XPHC ngày 16/7/2019; Quyết định số 01/QĐ-SĐQĐXP ngày 15/10/2019 sửa đổi, bổ sung quyết định xử phạt vi phạm hành chính; Quyết định giải quyết khiếu nại số 3022 ngày 03/10/2019 của Trưởng Công an TPTN, tỉnhThái Nguyên.

3. Về án phí:

- Án phí hành chính sơ thẩm: Trưởng công an TPTN, tỉnhThái Nguyên phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tiền án phí hành chính sơ thẩm sung quỹ nhà nước.

Trả lại cho anh Hoàng Hữu P 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu số 0002417 ngày 05/12/2019 của Chị cục thi hành án dân sự TPTN.

- Án phí hành chính phúc thẩm: Trưởng công an TPTN không phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí phúc thẩm. Hoàn trả lại cho Trưởng công an TPTN 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí phúc thẩm theo biên lai thu số 0003442 ngày 27/8/2020 của Chi cục thi hành án dân sự TPTN.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

511
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về khiếu kiện quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 04/2020/HC-PT

Số hiệu:04/2020/HC-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hành chính
Ngày ban hành: 31/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về