Bản án về khiếu kiện quyết định, hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai số 81/2023/HC-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 81/2023/HC-ST NGÀY 31/05/2023 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH, HÀNH VI HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI

Ngày 31 tháng 5 năm 2023, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử sơ thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số: 03/2023/HCST, ngày 06 tháng 01 năm 2023, về việc “Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai”.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 100/2023/QĐST-HC ngày 04/5/2023, giữa các đương sự:

1. Người khởi kiện: Ông Lê Văn D; địa chỉ: Thôn 9, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk;

2. Người bị kiện: Ủy ban nhân dân huyện K, tỉnh Đắk Lắk.

Người đại diện theo ủy quyền của người bị kiện: Bà Ngô Thị Minh T; chức vụ: Phó Chủ tịch UBND huyện K Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện: Ông Phan Xuân L; chức vụ: Phó trưởng phòng Tài nguyên và Môi trường huyện K

3. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

3.1. Bà Nguyễn Thị C; ông Nguyễn Văn T; cùng địa chỉ: Thôn 9, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk.

3.2. Ông Nguyễn Tất S; địa chỉ: Thôn 6, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk. (Tất cả đương sự đều có đơn xin xét xử vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, quá trình tố tụng và tại phiên tòa, người khởi kiện là ông Lê Văn D trình bày:

Về nguồn gốc đất là do tôi nhận chuyển nhượng của bà Nguyễn Thị C1 và được UBND huyện K cấp GCNQSDĐ số BL 099520 ngày 26/11/2012, thửa đất số 42, tờ bản đồ số 25, diện tích 3.440m2, tại xã H, huyện K, nguồn gốc cấp là công nhận quyền sử dụng đất như giao đất có thu tiền sử dụng đất. Tuy nhiên, theo kết quả chỉ dẫn ranh giới thửa đất ngoài thực tế được đơn vị thi công đo đạc theo dự án xây dựng hồ sơ địa chính và cơ sở dữ liệu đất đai thì vị trí thực tế của thửa đất này là thửa đất số 257, tờ bản đồ số 77 tại xã H (thưa đất cũ: 04 và 05, tờ bản đồ cũ: 25). Thửa đất số 42, tờ bản đồ số 25 theo GCNQSDĐ số BL 099520 được cấp trùng với GCNQSDĐ số V 374021 do UBND huyện K, tỉnh Đắk Lắk cấp ngày 21/4/2003 cho hộ bà Nguyễn Thị C. Vị trí của thửa đất số 42, tờ bản đồ số 25 theo GCNQSDĐ số BL 099520 hiện do ông Nguyễn Tất S sử dụng trên thực địa. Sau đó, tôi có làm đơn đến các cơ quan liên quan thì được hướng dẫn khởi kiện ra Tòa án, tại Công văn số 244/CNKP-ĐKTK ngày 12/9/2022 của Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện K về việc xử lý Giấy chứng nhận cấp sai vị trí. Do đó, ngày 20/10/2022, tôi khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên hủy GCNQSDĐ số BL 099520 do UBND huyện K cấp ngày 26/11/2012 cho ông Lê Văn D, đối với thửa đất số 42, tờ bản đồ số 25, diện tích 3.440m2, tại xã H, huyện K và buộc UBND huyện K cấp lại GCNQSDĐ theo đúng quy định của pháp luật.

* Ý kiến của đại diện ủy quyền của người bị kiện: Ủy ban nhân dân huyện K, tỉnh Đắk Lắk, bà Ngô Thị Minh T trình bày:

Về nguồn gốc đất: Ông Lê Văn D được UBND huyện K cấp GCNQSDĐ số BL 099520 ngày 26/11/2012 đối với thửa đất số 42, tờ bản đồ số 25, diện tích 3.440m2, tại xã H, huyện K. Tuy nhiên, theo kết quả chỉ dẫn ranh giới thửa đất ngoài thực tế của chủ sử dụng đất được đơn vị thi công đo đạc theo dự án xây dựng hồ sơ địa chính và cơ sở dữ liệu đất đai, thửa đất ông D đang sử dụng là thửa đất số 257, tờ bản đồ số 77, xã H (thửa đất cũ số 04 và 05, tờ bản đồ cũ số 25). Hiện trạng sử dụng đất thực tế của chủ sử dụng đất nêu trên không đúng với vị trí thửa đất được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hiện nay.

Đối với yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện thì UBND huyện K có ý kiến như sau: Qua kiểm tra trình tự thủ tục thực hiện hồ sơ cấp GCNQSDĐ lần đầu nêu trên nhận thấy trình tự thủ tục, thẩm quyền cấp GCNQSDĐ lần đầu thực hiện theo đúng quy định của Luật đất đai, tuy nhiên qua rà soát thì số thửa đã cấp theo bản đồ sai vị trí so với thực địa. Do đó, đề nghị Tòa án căn cứ vào quy định của pháp luật để xem xét giải quyết theo đúng quy định pháp luật.

* Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị C, ông Nguyễn Văn T, ông Nguyễn Tất S trình bày:

Chúng tôi đồng ý với lời trình bày và yêu cầu khởi kiện của ông Lê Văn D, không bổ sung gì thêm.

Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk tại phiên toà:

- Về thủ tục tố tụng: Hội đồng xét xử, những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng đã chấp hành đúng quy định của Luật tố tụng hành chính.

- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 193 Luật tố tụng hành chính: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Lê Văn D về việc hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BL 099520 do UBND huyện K cấp ngày 26/11/2012 cho ông Lê Văn D, đối với thửa đất số 42, tờ bản đồ số 25, diện tích 3.440m2 tại xã H, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Buộc Ủy ban nhân dân huyện K cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Lê Văn D theo quy định của pháp luật hiện hành.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng:

[1.1] Về đối tượng khởi kiện, thời hiệu khởi kiện và thẩm quyền giải quyết vụ án: Ngày 25/8/2004, UBND huyện K cấp GCNQSDĐ số AA 31806 cho hộ ông Trần Văn N đối với thửa đất số 42, tờ bản đồ số 25, diện tích 3.440m2 tại xã H, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Ngày 20/9/2012, đăng ký biến động để thừa kế cho bà Nguyễn Thị C1. Ngày 29/6/2012, bà C1 chuyển nhượng quyền sử dụng thửa đất cho ông Lê Văn D. Ngày 26/11/2012, ông D được UBND huyện K cấp GCNQSDĐ số BL 099520 đối với thửa đất nêu trên. Ngày 12/9/2022, Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện K ban hành Công văn số 244/CNKP-ĐKTK thể hiện nội dung GCNQSDĐ cấp cho ông D sai vị trí thửa đất so với thực tế sử dụng. Nên ngày 20/10/2022, ông D khởi kiện yêu cầu hủy GCNQSDĐ số BL 099520 do UBND huyện K cấp ngày 26/11/2012 cho ông Lê Văn D và yêu cầu cơ quan chức năng phải thực hiện hành vi cấp lại GCNQSDĐ cho ông D theo đúng quy định của pháp luật. Do đó, yêu cầu hủy GCNQSDĐ và buộc thực hiện hành vi cấp GCNQSDĐ là đối tượng khởi kiện của vụ án, thời hiệu khởi kiện trong hạn luật định và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk theo quy định tại các Điều 30, Điều 32 và Điều 116 của Luật tố tụng Hành chính.

[1.2] Về sự vắng mặt của đương sự: Toà án đã tiến hành tống đạt các văn bản tố tụng hợp lệ cho các đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự. Tuy nhiên, các đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự đều vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt. Do đó, HĐXX xét xử vắng mặt những người trên theo quy định tại Điều 158 của Luật Tố tụng Hành chính.

[2] Xét yêu cầu hủy GCNQSDĐ, HĐXX thấy:

Về nguồn gốc đất là do ông Lê Văn D nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất của bà Nguyễn Thị C1. Ngày 26/11/2012, ông D được UBND huyện K cấp GCNQSDĐ số BL 099520, đối với thửa đất số 42, tờ bản đồ số 25, diện tích 3.440m2 tại xã H, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Như vậy, đất có nguồn gốc rõ ràng.

Tuy nhiên, tại báo cáo số 04/BC-CNKP ngày 10/3/2022 của Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện K về việc xử lý GCNQSDĐ đã cấp sai vị trí thể hiện: Theo kết quả chỉ dẫn ranh giới thửa đất ngoài thực tế của chủ sử dụng đất được đơn vị thi công đo đạc theo dự án xây dựng hồ sơ địa chính và cơ sở dữ liệu đất đai, thửa đất ông D đang sử dụng là thửa đất số 257, tờ bản đồ số 77, xã H (thửa đất cũ 04 và 05, tờ bản đồ cũ 25). Thửa đất số 42, tờ bản đồ số 25 được cấp 02 GCNQSDĐ cho 02 chủ sử dụng là ông Lê Văn D và bà Nguyễn Thị C; vị trí cấp GCNQSDĐ cho 02 chủ sử dụng đất trên không đúng với hiện trạng sử dụng, hiện phần diện tích tại thửa đất này do ông Nguyễn Tất S sử dụng. Quá trình giải quyết vụ án, người bị kiện UBND huyện K xác định hiện trạng sử dụng đất thực tế của chủ sử dụng đất không đúng với vị trí thửa đất được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, số thửa đã cấp theo bản đồ sai vị trí so với thực địa. Những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị C, ông Nguyễn Văn T, ông Nguyễn Tất S là các chủ sử dụng đất, những người trực tiếp quản lý, sử dụng các thửa đất nêu trên cho rằng việc sử dụng đất của các chủ sử dụng là ổn định, liên tục và không có tranh chấp, ranh giới sử dụng đất của các chủ sử dụng ngoài thực địa rõ ràng, không phát sinh việc chuyển nhượng qua lại với nhau. Như vậy, GCNQSDĐ số BL 099520 do UBND huyện K cấp ngày 26/11/2012 cho ông Lê Văn D không đúng với vị trí thửa đất thực tế sử dụng.

Tại điểm d khoản 2 Điều 106 của Luật đất đai quy định:

“2. Nhà nước thu hồi giấy chứng nhận đã cấp trong các trường hợp sau:

d)Giấy chứng nhận đã cấp không đúng thẩm quyền, không đúng đối tượng sử dụng đất, không đúng diện tích đất, không đủ điều kiện được cấp, không đúng mục đích sử dụng đất hoặc thời hạn sử dụng đất hoặc nguồn gốc sử dụng đất theo quy định của pháp luật đất đai, trừ trường hợp người được cấp Giấy chứng nhận đó đã thực hiện chuyển quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất theo quy định của pháp luật đất đai”.

Và khoản 6 Điều 87 của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của luật đất đai quy định:

“Việc thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp không thuộc trường hợp quy định tại Khoản 2 Điều 106 của Luật Đất đai chỉ được thực hiện khi có bản án hoặc quyết định của Tòa án nhân dân đã được thi hành.” Do đó, ông D khởi kiện yêu cầu Tòa án hủy GCNQSDĐ số BL 099520 do UBND huyện K cấp ngày 26/11/2012 cho ông Lê Văn D, đối với thửa đất số 42, tờ bản đồ số 25, diện tích 3.440m2 tại xã H, huyện K, tỉnh Đắk Lắk là có căn cứ, cần được chấp nhận.

[2.2] Xét yêu cầu buộc UBND huyện K phải thực hiện hành vi cấp GCNQSDĐ, thấy rằng: Như đã phân tích và nhận định ở mục [2.1] ông D là người sử dụng đất hợp pháp nên có các quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất được quy định từ Điều 166 đến Điều 168 của Luật đất đai năm 2013. Do đó, cần chấp nhận yêu cầu của ông D, buộc UBND huyện K phải thực hiện hành vi cấp GCNQSDĐ cho ông D theo quy định của pháp luật hiện hành.

[3] Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện được chấp nhận nên ông D không phải chịu án phí hành chính sơ thẩm, cần buộc UBND huyện K phải chịu án 300.000 đồng án phí hành chính sơ thẩm là phù hợp với khoản 2 Điều 32 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 4 Điều 32; điểm a khoản 2 Điều 116; Điều 157; Điều 158; điểm b khoản 2 Điều 193; khoản 1 Điều 206 Luật tố tụng hành chính; Áp dụng khoản 3 Điều 100; điểm d khoản 2 Điều 106 Luật đất đai năm 2013; khoản 6 Điều 87 của Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của luật đất đai.

Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

[1] Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Lê Văn D.

Tuyên hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BL 099520 do UBND huyện K cấp ngày 26/11/2012 cho ông Lê Văn D, đối với thửa đất số 42, tờ bản đồ số 25, diện tích 3.440m2 tại xã H, huyện K, tỉnh Đắk Lắk Buộc Ủy ban nhân dân huyện K cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Lê Văn D theo quy định của pháp luật hiện hành.

[2] Về án phí:

Bà Lê Văn D không phải chịu án phí hành chính sơ thẩm. Buộc Ủy ban nhân dân huyện K phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) tiền án phí hành chính sơ thẩm.

[3] Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án hành chính sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án hành chính sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

160
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về khiếu kiện quyết định, hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai số 81/2023/HC-ST

Số hiệu:81/2023/HC-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hành chính
Ngày ban hành: 31/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về