TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ H
BẢN ÁN 404/2023/HC-PT NGÀY 06/04/2023 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH
Ngày 06 tháng 4 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố H xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số: 37/2022/TLPT-HC ngày 23/12/2022 về “Khiếu kiện quyết định hành chính về xử phạt vi phạm hành chính”.
Do bản án hành chính sơ thẩm số 02/2022/HC-ST ngày 06 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân Quận A, Thành phố H bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 1295/2023/QĐPT-HC ngày 24 tháng 3 năm 2023 giữa các đương sự:
1.Người khởi kiện: Bà Phạm Thị T (Có mặt).
Địa chỉ: 218/7/45D, Đường N, Phường B, quận G, Thành phố H.
2. Người bị kiện: Trưởng Công an Quận A, Thành phố H.
Địa chỉ: 345 Đường P, phường T, Quận A, Thành phố H.
Người đại diện hợp pháp của người bị kiện: Bà Trần Ngọc N, Phó Trưởng Công an Quận A (Vắng mặt).
Những người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện:
- Ông Bùi Quang T, Đội trưởng Đội QLHC về TTXH Công an Quận A (Có mặt).
- Hoặc bà Thân Thị Châu D, Đội trưởng Đội CTHC Công an Quận A (Vắng mặt) - Hoặc bà Bùi Thị Minh C, Cán bộ Công an phường Hiệp Thành, Quận A (Vắng mặt).
- Hoặc ông Nguyễn Ngọc M, Cán bộ thanh tra Đội CTHC Công an Quận A (Có mặt).
- Hoặc ông Ngô Hoàng L, Cán bộ thanh tra Đội CTHC Công an Quận A (Vắng mặt).
- Hoặc ông Nguyễn Thành V, Trưởng Công an phường Thới An, Quận A (Vắng mặt).
- Hoặc bà Nguyễn Thị Thuý H, Phó Trưởng Công an phường Thới An, Quận A (Có mặt).
Cùng địa chỉ: số 345 đường TTH07 (Nay là đường Trương Thị H), phường T, Quận A, Thành phố H.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Ngày 30/6/2021, Trưởng Công an Quận A ban hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 0002906/QĐ-XPHC (Sau đây viết tắt là Quyết định số 0002906/QĐ-XPHC), quyết định này có nội dung yêu cầu khôi phục sổ hộ khẩu mới (Cấp lần hai) số 31220080XXX ngày 18/3/2021, thu hồi sổ hộ khẩu cũ số 31220080XXX cấp ngày 21/11/2017. Ngày 10/7/2021, bà Tịnh khiếu nại Quyết định số 0002906/QĐ-XPHC, ngày 16/11/2021 Trưởng Công an Quận A ban hành Quyết định giải quyết khiếu nại số 5245/QĐ-CAQ12, nội dung không chấp nhận khiếu nại của bà Tịnh, giữ nguyên Quyết định số 0002906/QĐ-XPHC.
Ngày 03/12/2021, Công an Quận A ban hành Quyết định 5576/QĐ- CAQ12-QLHC về việc hủy bỏ đăng ký cư trú đối với bà Tịnh.
Ngày 28/12/2021, bà T khởi kiện tại Tòa án nhân dân Thành phố H với yêu cầu Tòa án hủy Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 0002906/QĐ-XPHC và yêu cầu khôi phục sổ hộ khẩu mới (Cấp lần hai) số 31220080XXX ngày 18/3/2021, thu hồi sổ hộ khẩu cũ số 31220080XXX cấp ngày 21/11/2017. Xét thấy yêu cầu khởi kiện của bà T không thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân Thành phố H, nên Tòa án nhân dân Thành phố H đã chuyển đơn khởi kiện này đến Tòa án nhân dân Quận A để giải quyết theo thẩm quyền. Sau khi nhận được hồ sơ do Tòa án nhân dân Thành phố H chuyển đến, ngày 30/3/2022 Tòa án nhân dân Quận A đã thụ lý vụ án số 01/2022/TLST-HC đối với yêu cầu khởi kiện nêu trên của bà T.
Ngày 19/7/2022, bà T tiếp tục nộp đơn khởi kiện tại Tòa án nhân dân Quận A, yêu cầu Tòa hủy Quyết định hành chính số 5576/QĐ-CAQ12-QLHC ngày 03/12/2021 (Sau đây viết tắt là Quyết định số 5576/QĐ-CAQ12-QLHC) của Công an Quận A. Sau khi nhận được đơn khởi kiện của bà T, Tòa án nhân dân Quận A đã thụ lý vụ án hành chính sơ thẩm số 04/2022/TLST-HC ngày 25/7/2022.
Theo yêu cầu của bà T, ngày 25/8/2022 Tòa án nhân dân Quận A ban hành Quyết định nhập vụ án hành chính số 01/2022/QĐST -HC nhập hai vụ án thụ lý số 01/2022/QĐST-HC ngày 30/3/2022 và vụ án thụ lý số 04/2022/TLST-HC ngày 25/7/2022 thành một vụ án thụ lý số 01/2022/TLST- HC ngày 30/3/2022.
Bà T trình bày, ngày 02/3/2021 cha bà là ông Phạm Đức Th (sinh năm 1930 - chết ngày 14/10/2021), ông T là chủ hộ Hộ khẩu số 31220080XXX (Địa chỉ thường trú tại số 81, TA 10, Khu phố 3, phường T, Quận A, Thành phố H) có đến Công an phường T làm “Phiếu báo thay đổi hộ khẩu, nhân khẩu”. Nội dung thay đổi hộ khẩu, nhân khẩu là xin cấp lại sổ hộ khẩu mới, lý do mất sổ và bảo lãnh thêm cho 3 người vào thường trú trong cùng hộ khẩu gồm các ông Phạm Văn P, Phạm Văn T và Phạm Văn T đã được Công an phường T xác nhận.
Ngày 18/3/2021, Công an Quận A cấp lại sổ hộ khẩu mới cho ông Th (Cấp lần hai) số sổ 31220080XXX. Ngày 19/4/2021, ông Th làm thủ tục nhập hộ khẩu cho bà T, ngày 29/4/2021 bà T đã được giải quyết đăng ký thường trú vào cùng địa chỉ với ông T. Ngày 07/5/2021, ông Th làm thủ tục đổi tên chủ hộ sang cho bà T.
Ngày 30/6/2021, Trưởng Công an Quận A ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 0002906/QĐ-XPHC đối với bà T về hành vi khai man, giả mạo hồ sơ giấy tờ để được đăng ký thường trú, cấp sổ hộ khẩu, mức phạt tiền là 3.000.000 đồng, biện pháp khắc phục hậu quả là buộc thu hồi sổ hộ khẩu. Bà Tị khiếu nại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 0002906/QĐ-XPHC, ngày 16/11/2021 và Trưởng Công an Quận A ban hành Quyết định giải quyết khiếu nại (Lần đầu) số 5245/QĐ-CAQ12, nội dung không chấp khiếu nại của bà T.
Ngày 03/12/2021, Công an Quận A ban hành Quyết định số 5576/QĐ- CAQ12-QLHC về việc hủy bỏ đăng ký cư trú, nội dung: hủy bỏ đăng ký thường trú của Công an Quận A đối với trường hợp bà Phạm Thị T, sinh ngày 22/11/1970, HKTT: 81 tổ 3, Khu phố 3, phường T, Quận A, Thành phố H và tịch thu sổ hộ khẩu bản chính số 31220080XXX.
Bà T cho rằng Trưởng Công an Quận A và Công an Quận A đã ban hành các quyết định trên không đúng pháp luật, nên bà khởi kiện yêu cầu Tòa án hủy các quyết định này đồng thời khôi phục lại sổ hộ khẩu mới (Cấp lần hai) số 31220080XXX ngày 18/3/2021 cho bà.
Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 02/2022/HC-ST ngày 06 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân Quận A, Thành phố H đã quyết định:
“1. Bác yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị T về việc yêu cầu Tòa án nhân dân Quận A tuyên hủy Quyết định số 0002906/QĐ-XPHC, ngày 30 tháng 6 năm 2021 và Quyết định số 5576/QĐ-CAQ12-QLHC, ngày 03 tháng 12 năm 2021, của Trưởng Công an Quận A.
2. Bác yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị T về việc yêu cầu khôi phục sổ hộ khẩu mới (Cấp lần hai) số 31220080XXX ngày 18/3/2021”.
Ngoài ra bản án còn quyết định về án phí hành chính sơ thẩm và quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 06/9/2022, bà T nộp đơn kháng cáo toàn bộ nội dung bản án hành chính sơ thẩm nêu trên, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà.
Tại phiên tòa phúc thẩm.
- Người khởi kiện giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện.
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ thẩm.
- Không có ai cung cấp, bổ sung thêm tài liệu chứng cứ.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố H phát biểu ý kiến:
Việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn phúc thẩm của Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng đã tiến hành đúng theo quy định của Luật tố tụng hành chính.
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được kiểm tra, xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên và các quy định của pháp luật có liên quan, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về thủ tục tố tụng:
[1.1]. Người khởi kiện nộp đơn kháng cáo và nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm trong hạn luật định, nên kháng cáo hợp lệ và được Tòa án cấp phúc thẩm xem xét giải quyết theo trình tự phúc thẩm.
[1.2]. Quan hệ pháp luật có tranh chấp và thời hiệu khởi kiện vụ án đã được Tòa án cấp sơ thẩm xác định đúng theo quy định của pháp luật. Đối với việc xác định người tham gia tố tụng trong vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định tư cách người tham gia tố tụng chưa đầy đủ.
[1.3]. Về việc xét xử vắng mặt người tham gia tố tụng:
Người đại diện hợp pháp của người bị kiện bà Trần Ngọc N có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt, nên Hội đồng xét xử quyết định tiến hành xét xử vắng mặt theo quy định tại Điều 158 Luật Tố tụng hành chính.
[2].Về trình tự, thủ tục và thẩm quyền ban hành các quyết định hành chính: Công an Quận A xác định bà T có hành vi khai man, giả mạo hồ sơ để được đăng ký hộ khẩu thường trú nên đã lập biên bản vi phạm hành chính. Do đó Trưởng Công an Quận A, Công an Quận A đã ban hành các quyết định số 0002906/QĐ-XPHC ngày 30/6/2021 và Quyết định số 5576/QĐ-CAQ12-QLHC ngày 03/12/2021 xử lý đối với bà T theo đúng trình tự, thủ tục và thẩm quyền được quy định tại khoản 2 Điều 58, khoản 1 Điều 6 Luật xử lý vi phạm hành chính, khoản 4 Điều 66 Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ.
[3] Về nội dung các quyết định:
Bà T cho rằng các quyết định trên của Trưởng Công an Quận A, Công an Quận A không đúng pháp luật, nhưng trong “ Đơn xin cứu xét” ngày 28/6/2021 bà Tịnh viết có nội dung:
… “ Tôi làm tường trình 3 nội dung: 1. Báo mất hộ khẩu cấp lại ngày 18/3/2021. 2. Nhập khẩu về (số 81) ngày 15/4/2021. 3. Đổi chủ hộ theo nguyện vọng của ba tôi ngày 07/5/2021. 3 loại đơn trên tôi đã viết dưới sự đồng ý của ba tôi. Tôi ký tên cho ba tôi trước sự đồng ý của ba tôi…”.
Ngoài ra tại phiên tòa sơ thẩm ông Nguyễn Khánh D là người đại diện hợp pháp của bà T thừa nhận bà T có viết và ký vào “ Đơn xin cứu xét” ngày 28/6/2021.
Thông tư số 36/2014/TT-BCA ngày của Bộ Công an quy định thì người khai là chủ hộ phải ký tên vào Phiếu báo HK02, nhưng bà T đã ký tên thay ông Phạm Đức Th vào Phiếu báo này. Ngoài ra Thông tư này còn quy định nếu người khai không thể ghi và ký tên vào Phiếu báo thì có thể nhờ người khác ghi hộ, nhưng người ghi hộ phải ghi đúng họ tên của người ghi hộ. Điều đó chứng tỏ bà Tịnh đã có hành vi giả mạo chữ ký của ông Th.
Tòa án cấp sơ thẩm đã nhận định:
Trưởng Công an Quận A đã căn cứ vào Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ: “ Khai man, giả mạo hồ sơ, giấy tờ để được đăng ký thường trú, tạm trú, cấp sổ hộ khẩu, sổ tạm trú”, để ban hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 0002906/QĐ-XPHC là đúng quy định của pháp luật.
Về biện pháp khắc phục hậu quả, Công an Quận A đã căn cứ vào Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ và Thông tư số 55/2021/TT-BCA ngày 15/5/2021 của Bộ Công an để ban hành Quyết định hành chính số 5576/QĐ-CAQ12-QLHC với các nội dung “Buộc thu hồi sổ hộ khẩu”, “Buộc hủy bỏ thông tin, tài liệu sai sự thật”, “Hủy bỏ đăng ký thường trú” là đúng quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa phúc thẩm, Hội đồng xét xử nhận thấy việc giải quyết vụ án ở giai đoạn sơ thẩm, Tòa án cấp sơ thẩm xác định tư cách người tham gia tố tụng chưa đầy đủ, nhưng không làm thay đổi bản chất nội dung vụ án, nên không cần thiết phải hủy bản án sơ thẩm. Do đó Hội đồng xét xử phúc thẩm kiến nghị Tòa án cấp sơ thẩm rút kinh nghiệm về phần này.
Ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố H là phù hợp với quy định của pháp luật, nên Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận.
Với những nhận định trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bà Tịnh mà giữ nguyên bản án sơ thẩm.
[4] Về án phí phúc thẩm: Bà Tị chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 241 và Điều 242 Luật Tố tụng hành chính;
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn giảm, thu, nộp và quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, Tuyên xử:
1. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu kháng cáo của bà Phạm Thị T.
2. Giữ nguyên Bản án hành chính sơ thẩm số 02/2022/HC-ST ngày 06 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân Quận A, Thành phố H.
3. Về án phí hành chính phúc thẩm: Bà Tị chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng, nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí phúc thẩm bà Tịnh đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2021/0023866 ngày 14 tháng 9 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận A. Bà Tị đã nộp đủ tiền án phí phúc thẩm.
Bản án hành chính phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính xử phạt vi phạm hành chính số 404/2023/HC-PT
Số hiệu: | 404/2023/HC-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Ngày ban hành: | 06/04/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về