Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính trong quản lý đất đai số 64/2022/HC-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 64/2022/HC-PT NGÀY 08/03/2022 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH TRONG QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI

Ngày 08 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính phúc thẩm thụ lý số 277/2021/TLPT-HC ngày 05 tháng 10 năm 2021, về việc “Khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai”. Do Bản án hành chính sơ thẩm số 39/2021/HC-ST ngày 17 tháng 8 năm 2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1010/2021/QĐ-HC ngày 12/02/2021, giữa các đương sự:

- Người khởi kiện: Bà Đinh Thị L, sinh năm 1941; địa chỉ: Thôn C, xã B, thị xã B1, tỉnh Đắk Lắk. Vắng.

Người đại diện theo ủy quyền của bà L: Ông Lê Công T, sinh năm 1964; Địa chỉ: Số 28 đường N, phường T1, thành phố B2, tỉnh Đắk Lắk. Vắng (có đơn xin xét xử vắng mặt).

- Người bị kiện:

+ Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk.

Đại diện theo ủy quyền: Ông Võ Văn C - Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk. Vắng (có đơn xin xét xử vắng mặt).

+ Chủ tịch UBND thị xã B1. Vắng (có đơn xin xét xử vắng mặt).

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Chủ tịch UBND thị xã B1: Ông Võ Lê Mạnh H – Trưởng phòng Tài nguyên và môi trường thị xã B1. Vắng (có đơn xin xét xử vắng mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Ông Sầm Văn Đ (Đã chết);

Người thừa kế quyền, nghĩa vụ tố tụng của ông Đ là: Chị Sầm Thị Ng (con ông Đ), anh Sầm Văn Đ1 (con ông Đ), bà Trần Thị P (vợ ông Đ), cụ Đàm Thị T2 (mẹ ông Đ). Chị Sầm Thị Ng vắng (có đơn xin xét xử vắng mặt).

Cùng địa chỉ: Thôn C, xã B, thị xã B1, tỉnh Đắk Lắk.

Người đại diện theo ủy quyền của anh Sầm Văn Đ1, bà Trần Thị P, cụ Đàm Thị T2: chị Sầm Thị Ng. Vắng (có đơn xin xét xử vắng mặt).

+ Ông Đinh Văn K, anh Đinh Văn Q;

Cùng địa chỉ: Xóm P, xã N, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng. Vắng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện của bà Đinh Thị L, quá trình tham gia tố tụng và người đại diện theo ủy quyền của bà L là ông Lê Công T trình bày:

Vào năm 1994, bà L và ông Lưu Văn P1 trú tại xã H1, huyện K1 có thỏa thuận đổi đất cho nhau, theo đó ông P1 nhận 3.000m2 đất của bà L, còn bà L nhận 5.000m2 đất của ông P1. Khi đổi đất các bên có lập biên bản đổi đất và có chữ ký của các bên. Sau khi đổi đất bà L, ông K và anh Q có phát dọn thêm được khoảng 1.000m2. Tổng diện tích là 6.000m2 đất tại thôn C, xã B, thị xã B1. Khi ông Đinh Văn K, anh Đinh Văn Q ở cùng bà Đinh Thị L cũng cùng canh tác trên diện tích 6.000m2 đất này.

Vào ngày 18/7/1996, bà Đinh Thị L, ông Đinh Văn K, anh Đinh Văn Q, ông Đinh Văn H2 và ba em trai bà L là ông Đinh Văn Đ1, ông Đinh Văn C1, ông Đinh Văn H3 có tổ chức họp và lập biên bản hòa giải phân chia tài sản, trong đó có nội dung “Đất rẫy sau nhà L1 dành cho Đinh Văn Q vĩnh viễn”. Ông Đinh Xuân H2 là tổ phó tổ 3, thôn C là người viết biên bản hòa giải. Bà L cho rằng bà không đọc biên bản và không thừa nhận nội dung Biên bản hòa giải ngày 18/7/1996 nhưng bà thừa nhận có ký vào Biên bản hòa giải này.

Ngày 11/12/1996, anh Đinh Văn Q đã bán diện tích đất này cho ông Sầm Văn Đ, ông Đ trồng cà phê và cây tiêu từ năm 1997 đến nay.

Khi xảy ra tranh chấp bà L đã nộp đơn khiếu nại lên UBND thị xã B1 và UBND tỉnh Đắk Lắk. Ngày 05/12/2013, bà L nhận được Quyết định số 4788/QĐ-UBND của Chủ tịch UBND thị xã B1; đến ngày 31/12/2015, bà L tiếp tục nhận được Quyết định số 4261/QĐ-UBND của Chủ tịch UBND thị xã B1 về việc giải quyết tranh chấp đất đai nhưng cả hai Quyết định đều không chấp nhận đơn khiếu nại của bà L. Bà L tiếp tục yêu cầu UBND tỉnh Đắk Lắk xem xét giải quyết lại vụ việc. Ngày 08/9/2016, bà L nhận được Quyết định số 2638/QĐ-UBND của Chủ tịch UBND tỉnh Đắk Lắk về việc giải quyết tranh chấp đất đai giữa bà L và ông Sầm Văn Đ đồng thời vẫn giữ nguyên nội dung hai quyết định của Chủ tịch UBND thị xã B1 đã giải quyết trước đó.

Do không chấp nhận các quyết định của Chủ tịch UBND thị xã B1 và Chủ tịch UBND tỉnh Đắk Lắk nên bà L làm đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk: Hủy Quyết định số 4788/QĐ-UBND ngày 05/12/2013 của Chủ tịch UBND thị xã B1 về giải quyết tranh chấp đất đai của bà Đinh Thị L; Quyết định số 4261/QĐ-UBND ngày 31/12/2015 của Chủ tịch UBND thị xã B1 về giải quyết tranh chấp đất đai giữa bà Đinh Thị L và ông Sầm Văn Đ; Quyết định số 2638/QĐ-UBND ngày 08/9/2016 của Chủ tịch UBND tỉnh Đắk Lắk về giải quyết tranh chấp đất đai giữa bà Đinh Thị L và ông Sầm Văn Đ tại thôn C, xã B, thị xã B1, tỉnh Đắk Lắk.

Quá trình giải quyết vụ án người đại diện theo ủy quyền của bà Đinh Thị L là ông Lê Công T khai thêm: Trong biên bản hòa giải có ghi “…1/. Đất rẫy trước nhà Hà Văn Đ2, dành cho bà Đinh Thị L quản lý và sử dụng vĩnh viễn, 2/. Đất rẫy sau nhà L1 dành cho Đinh Văn Q sử dụng và vĩnh viễn” nhưng thực tế phần đất ghi trước nhà Hà Văn Đ2 được chia cho bà Đinh Thị L thì đây không phải là đất của bà L mà là đất của em trai bà L tên là Đinh Văn Đ1, sau đó em trai bà L đã bán cho người khác. Do vậy, trên thực tế chỉ có 01 thửa đất mà hiện nay đang tranh chấp, sau khi anh Đinh Văn Q bán thửa đất này cho ông Sầm Văn Đ thì bà Đinh Thị L không còn đất ở nữa nên bà L đã về quê sinh sống tại Cao Bằng. Bà L còn khai trước đó tại thửa đất này còn có nhà gỗ của bà L, có cả ông K, anh Q cùng sinh sống nhưng hiện nay không còn nữa.

* Người bị kiện:

- Đại diện của người bị kiện Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk trình bày: Căn cứ vào kết quả thẩm tra, xác minh và toàn bộ hồ sơ, tài liệu liên quan nhận thấy: Việc bà L cho rằng ông Q tự ý bán đất cho ông Đ khi chưa có sự đồng ý của bà là không có cơ sở, vì theo biên bản phân chia tài sản ngày 18/7/1996 thì lô đất này ông Đinh Văn Q được quản lý, sử dụng vĩnh viễn. Do đó, ông Q có quyền sang nhượng lô đất cho ông Đ. Thực tế ông Đ đã quản lý, sử dụng đất này ổn định liên tục từ năm 1996 đến nay.

Ngày 08/9/2016, Chủ tịch UBND tỉnh Đắk Lắk ban hành Quyết định số 2638/QĐ-UBND về việc giải quyết tranh chấp đất đai giữa bà L với ông Đ với nội dung “Không chấp nhận nội dung đơn của bà Đinh Thị L về việc đề nghị giải quyết tranh chấp đất đai và yêu cầu ông Sầm Văn Đ trả lại đất; thống nhất giữ nguyên với nội dung giải quyết tại Quyết định số 4261/QĐ-UBND ngày 31/12/2015 của Chủ tịch UBND thị xã B1”. Nội dung giải quyết tại quyết định trên là đúng với quy định của pháp luật. Đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xem xét, giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.

- Đại diện của người bị kiện Chủ tịch UBND thị xã B1 trình bày: Ý kiến của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị xã B1 cơ bản như ý kiến trình bày của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk và đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk không chấp nhận đơn khởi kiện của bà L giữ nguyên nội dung Quyết định số 4261/QĐ- UBND ngày 31/12/2015 của Chủ tịch UBND thị xã B1 về giải quyết tranh chấp đất đai giữa bà Đinh Thị L và ông Sầm Văn Đ tại thôn C, xã B, thị xã B1; Quyết định số 2638/QĐ-UBND ngày 08/9/2016 của Chủ tịch UBND tỉnh Đắk Lắk về việc giải quyết tranh chấp đất đai giữa bà Đinh Thị L và ông Sầm Văn Đ tại thôn C, xã B, thị xã B1.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Người đại diện theo ủy quyền của người kế thừa quyền và nghĩa vụ tham gia tố tụng của ông Sầm Văn Đ là chị Sầm Thị Ng trình bày: Vào ngày 11/12/1996, bố tôi là ông Sầm Văn Đ có nhận chuyển nhượng của anh Đinh Văn Quyền với diện tích đất khoảng 6.000m2 tại thôn C, xã B, thị xã B1, tỉnh Đắk Lắk, khi ông Đ nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất này thì anh Q có đưa ra Biên bản hòa giải phân chia tài sản ngày 18/7/1996 để chứng minh là tài sản riêng của anh Đinh Văn Q nên bố tôi mới đồng ý nhận chuyển nhượng, khi nhận chuyển nhượng giữa hai bên có viết giấy sang nhượng do ông Nông Văn Khôi là tổ trưởng viết và làm chứng cho bố tôi (ông Đ) đã mua diện tích đất này với giá 3.000.000đồng. Sau khi nhận chuyển nhượng, gia đình tôi đã làm 01 căn nhà trên đất, đào giếng nước, làm sân phơi, trồng cây cà phê, tiêu, hoa màu và sử dụng ổn định thì đến năm 2001 mới phát sinh tranh chấp với bà Đinh Thị L. Đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử theo quy định pháp luật để bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho gia đình tôi.

(Đối với ông Sầm Văn Đ, khi còn sống cũng có ý kiến trình bày như trên).

- Anh Đinh Văn Q trình bày: Anh Q và ông K (Bố anh Q) có chung sống với bà L từ năm 1993. Về nguồn gốc đất tranh chấp giữa bà L và ông Đ là của ông K mua của ông P1, khi anh Q ở nhà bà L thì anh có canh tác trên diện tích đất này. Theo Biên bản hòa giải ngày 18/7/1996 thì bà L có biết nội dung trong biên bản và đồng ý ký tên vào biên bản. Mặt khác, diện tích đất đang tranh chấp này là của ông K mua của ông P1 nên anh có quyền bán cho ông Đ. Vì lý do ở xa nên anh xin vắng mặt khi Tòa án giải quyết vụ án.

- Ông Đinh Văn K có ý kiến như trình bày như anh Đinh Văn Q.

Tại Bản án số 39/2021/HC-ST ngày 17 tháng 8 năm 2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Đăk Lăk đã quyết định:

Căn cứ vào khoản 1 Điều 30; khoản 3, 4 Điều 32, điểm b khoản 2 Điều 193; Điều 194 và khoản 1 Điều 206 Luật Tố tụng hành chính; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Tuyên xử : Chấp nhận đơn khởi kiện của bà Đinh Thị L.

Hủy Quyết định số 4788/QĐ-UBND ngày 05/12/2013 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị xã B1 về giải quyết tranh chấp đất đai của bà Đinh Thị L;

Hủy Quyết định số 4261/QĐ-UBND ngày 31/12/2015 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị xã B1 về giải quyết tranh chấp đất đai giữa bà Đinh Thị L và ông Sầm Văn Đ;

Hủy Quyết định số 2638/QĐ-UBND ngày 08/9/2016 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk về giải quyết tranh chấp đất đai giữa bà Đinh Thị L và ông Sầm Văn Đ tại thôn C, xã B, thị xã B1, tỉnh Đắk Lắk.

Ngoài ra Bản án sơ thẩm còn tuyên về nghĩa vụ chịu chi phí xem xét thẩm định tại chỗ, án phí sơ thẩm và quyền kháng cáo.

- Ngày 27/8/2021, bà Sầm Thị Ng là người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Sầm Văn Đ (chết) có đơn kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa án sơ thẩm theo hướng bác yêu cầu khởi kiện của bà Đinh Thị L.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng phát biểu quan điểm về giải quyết vụ án:

- Về việc chấp hành pháp luật: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng hành chính.

- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bà Sầm Thị Ng; giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ đã được xem xét tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận và ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng; Xét thấy:

[1] Xét kháng cáo của bà Sầm Thị Ng, nhận thấy:

[1.1] Diện tích đất tranh chấp giữa bà Đinh Thị L và ông Sầm Văn Đ là của ông Lưu Văn P1 đã hoán đổi cho bà L vào năm 1994, theo đó ông P1 nhận 3.000m2 đất của bà L; bà L nhận 5.000m2 đất của ông P1. Sau khi đổi đất bà L cùng ông Đinh Văn K và ông Đinh Văn Q (con ông K) khai hoang thêm khoảng 1.000m2. Như vậy tổng diện tích đất bà L, ông K, ông Q có được là 6.000m2.

[1.2] Ngày 18/7/1996, bà Đinh Thị L cùng các ông Đinh Văn K, Đinh Văn Q, Đinh Xuân H2 (tổ trưởng tổ 3, thôn C, xã B, huyện K1) và hai em trai bà L là Đinh Văn Đ1, Đinh Văn C1 lập biên bản hòa giải trong gia đình; trong đó cam kết: “1. Đất rẫy trước nhà Hà Văn Đ2, dành cho Đinh Thị L quản lý sử dụng vĩnh viễn. 2. Đất rẫy sau nhà L1, dành cho Đinh Văn Q sử dụng vĩnh viễn...”. Sau khi có biên bản hòa giải, ông Q đã chuyển nhượng toàn bộ thửa đất này cho ông Sầm Văn Đ và hiện nay thửa đất này do Sầm Văn Đ1 (con ông Đ) đang quản lý, sử dụng. Năm 2020, bà L khiếu nại, UBND xã B đã hòa giải nhưng không thành.

[1.3] Ngày 20/5/2013, bà L tiếp tục khiếu nại yêu cầu ông Q, ông Đ trả lại đất cho bà. Tại Quyết định số 4788/QĐ-UBND ngày 05/12/2013 và Quyết định số 4261/QĐ-UBND ngày 31/12/2015 của Chủ tịch UBND thị xã B1 đều bác yêu cầu khiếu nại của bà L. Bà L tiếp tục khiếu nại và ngày 08/9/2016 Chủ tịch UBND tỉnh Đăk Lăk ban hành Quyết định số 2638/QĐ-UBND ngày 08/9/2016 cũng bác yêu cầu khiếu nại của bà L; giữ nguyên quyết định giải quyết khiếu nại của Chủ tịch UBND thị xã B1.

Quyết định số 4788/QĐ-UBND ngày 05/12/2013 và Quyết định số 4261/QĐ-UBND ngày 31/12/2015 của Chủ tịch UBND thị xã B1 và Quyết định số 2638/QĐ-UBND ngày 08/9/2016 của Chủ tịch UBND tỉnh Đăk Lăk đều căn cứ vào Biên bản hòa giải ngày 18/7/1996 để bác khiếu nại của bà L.

[1.4] Xét thấy tại Biên bản hòa giải ngày 18/7/1996 ghi: “1. Đất rẫy trước nhà Hà Văn Đ2, dành cho Đinh Thị L quản lý sử dụng vĩnh viễn. 2. Đất rẫy sau nhà L1, dành cho Đinh Văn Q sử dụng vĩnh viễn...”. Như vậy theo nội dung Biên bản thì diện tích đất được chia làm 2 phần, nhưng không thể hiện rõ diện tích mỗi người là bao nhiêu, số đo các cạnh bao nhiêu. Mặt khác Biên bản thỏa thuận ngày 18/7/1996 do tổ dân cư của thôn lập không có xác nhận của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, nên chỉ có giá trị khi các bên tự nguyện thực hiện. Nhưng theo nội dung “Đơn khiếu nại” ngày 08/10/2000 thì từ năm 1998, bà L và ông Đ đã xảy ra tranh chấp diện tích đất nói trên; điều đó chứng tỏ bà L không tự nguyện thực hiện Biên bản hòa giải, nhưng Chủ tịch UBND thị xã B1 và Chủ tịch UBND tỉnh Đăk Lăk đều căn cứ vào Biên bản hòa giải ngày 18/7/1996 để bác khiếu nại của bà L, công nhận toàn bộ diện tích đất mà ông Q chuyển nhượng cho ông Đ là chưa đủ căn cứ, chưa đảm bảo quyền và lợi ích của bà L.

Án sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà L là có căn cứ, đúng quy định pháp luật. Bà Sầm Thị Ng kháng cáo nhưng không có tài liệu, chứng cứ nào mới có thể làm thay đổi nội dung vụ án, nên Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận; giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[2] Các quyết dịnh khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.

[3] Về án phí phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bà Sầm Thị Ng phải chịu án phí hành chính phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

Căn cứ khoản 1 Điều 241 Luật Tố tụng hành chính.

QUYẾT ĐỊNH

1. Bác kháng cáo của bà Sầm Thị Ng; giữ nguyên án sơ thẩm.

Chấp nhận đơn khởi kiện của bà Đinh Thị L.

- Hủy Quyết định số 4788/QĐ-UBND ngày 05/12/2013 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị xã B1 về giải quyết tranh chấp đất đai của bà Đinh Thị L;

- Hủy Quyết định số 4261/QĐ-UBND ngày 31/12/2015 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị xã B1 về giải quyết tranh chấp đất đai giữa bà Đinh Thị L và ông Sầm Văn Đ;

- Hủy Quyết định số 2638/QĐ-UBND ngày 08/9/2016 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk về giải quyết tranh chấp đất đai giữa bà Đinh Thị L và ông Sầm Văn Đ tại thôn C, xã B, thị xã B1, tỉnh Đắk Lắk.

2. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị và được thi hành theo Bản án hành chính sơ thẩm số 39/2021/HC-ST ngày 17/8/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Đăk Lăk.

3. Về án phí hành chính phúc thẩm: Bà Sầm Thị Ng phải chịu 300.000 đồng án phí hành chính phúc thẩm. Đã nộp đủ tại biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0007521 ngày 13/9/2021 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Đăk Lăk.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

265
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính trong quản lý đất đai số 64/2022/HC-PT

Số hiệu:64/2022/HC-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hành chính
Ngày ban hành: 08/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về