Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính trong quản lý đất đai số 308/2023/HC-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 308/2023/HC-PT NGÀY 11/05/2023 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH TRONG QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI

Ngày 11 tháng 5 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính phúc thẩm thụ lý số: 725/2022/TLPT-HC ngày 10 tháng 11 năm 2022 về việc “Khiếu kiện quyết định hành chính trong quản lý đất đai”.

Do Bản án hành chính sơ thẩm số: 18/2022/HC-ST ngày 27 tháng 7 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 807/2023/QĐ-PT ngày 19/5/2023; giữa các đương sự:

- Người khởi kiện: Bà Phạm Thị Minh T, sinh năm 1978; trú tại: ấp 2, xã Bến Củi, huyện Dương Minh C, tỉnh Tây Ninh; vắng mặt.

Người đại diện hợp pháp của bà T: anh Nguyễn Đình P, sinh năm 1984; địa chỉ: số 60, đường Đ, khu phố 2 thị trấn D, huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương; có mặt.

- Người bị kiện: Ủy ban nhân dân huyện Dương Minh C, tỉnh Tây Ninh.

Người đại diện theo pháp luật của Ủy ban nhân dân huyện Dương Minh C, tỉnh Tây Ninh: ông Phạm Văn T, chức vụ: Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Dương Minh C, tỉnh Tây Ninh; có văn bản xin vắng mặt.

Người đại diện theo ủy quyền: ông Đặng Thủ T, chức vụ: Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Dương Minh C, tỉnh Tây Ninh; có mặt.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị kiện Ủy ban nhân dân huyện Dương Minh C, tỉnh Tây Ninh:

1. Ông Nguyễn Thiện H, sinh năm 1975, chức vụ: Phó giám đốc Trung tâm phát triển quỹ đất huyện Dương Minh C; có mặt.

- Người kháng cáo: Người khởi kiện bà Phạm Thị Minh T.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện của bà Phạm Thị Minh T và anh Nguyễn Đình P là người đại diện theo ủy quyền của bà T trình bày:

Phần đất diện tích 179,8 m² (trong diện tích đất 419,2m²), thuộc thửa đất số 96, tờ bản đồ số 19, tại xã Bến Củi, huyện Dương Minh C, tỉnh Tây Ninh do bà Phạm Thị Minh T quản lý, sử dụng và được Ủy ban nhân dân (sau đây viết tắt là UBND) huyện Dương Minh C cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BQ 1944997 ngày 14-01-2015.

Ngày 02-6-2021, UBND huyện Dương Minh C ban hành Quyết định số 1918/QĐ-UBND về việc thu hồi 179,8 m² đất nêu trên của bà T.

Ngày 05-6-2021, UBND huyện Dương Minh C ban hành Quyết định số 1926/QĐ-UBND về việc phê duyệt phương án chi tiết bồi thường, hỗ trợ cho bà Phạm Thị Minh T để giải phóng mặt bằng thực hiện dự án đường Đất Sét – Bến Củi; với tổng số tiền bồi thường, hỗ trợ cho bà T là 253.064.895 đồng. Bà T đồng ý với quyết định thu hồi đất, diện tích và loại đất bị thu hồi; đã giao đất cho nhà nước, nhưng không đồng ý với mức giá bồi thường, yêu cầu bồi thường, hỗ trợ theo mức giá thị trường.

Nay bà Phạm Thị Minh T khởi kiện yêu cầu hủy bỏ Quyết định số 1926/QĐ-UBND ngày 05-6-2021 của UBND huyện Dương Minh C về việc phê duyệt phương án chi tiết bồi thường, hỗ trợ cho bà Phạm Thị Minh T để giải phóng mặt bằng thực hiện dự án: đường Đất Sét – Bến Củi và buộc UBND huyện Dương Minh C bồi thường, hỗ trợ theo giá thị trường với tổng số tiền 2.140.000.000 (hai tỷ, một trăm bốn mươi triệu) đồng. Trong đó, bồi thường, hỗ trợ về đất: 1.790.800.000 đồng; bồi thường, hỗ trợ về nhà và mái che: 350.000.000 đồng.

Ông Đặng Thủ Thừa là người đại diện theo ủy quyền của UBND huyện Dương Minh C trình bày: UBND huyện Dương Minh C giữ nguyên Quyết định số 1926/QĐ-UBND ngày 05-6-2021. Đề nghị bác yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị Minh T.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị kiện – Ông Nguyễn Thiện Hợp trình bày: Việc áp giá bồi thường về đất thực hiện đúng theo Quyết định số 245/QĐ-UBND ngày 11-02-2020 của UBND tỉnh Tây Ninh về việc phê duyệt giá đất cụ thể để bồi thường đất thực hiện dự án đường Đất Sét – Bến Củi.

Cụ thể:

+ Đất ở nông thôn vị trí 1, khu vực II, xã Loại 2 (xã Bến Củi), đơn giá: 1.010.850 đồng/m².

+ Đất nông nghiệp ven đường (đất cây trồng lâu năm) thuộc vị trí 1, khu vực II, xã Loại 2 (xã Bến Củi), đơn giá 230.000 đồng/m².

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị kiện – Ông Nguyễn Văn Hùng trình bày: ông thống nhất với lời trình bày của ông Thừa và ông Hợp, không bổ sung thêm.

Tại phiên tòa, ông Nguyễn Đình P là người đại diện hợp pháp của bà T trình bày: bà Phạm Thị Minh T giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. Ông Phổ xác định Quyết định số 1926/QĐ-UBND ngày 05-6-2021 đã áp giá là đúng với quy định của pháp luật nhưng chưa phù hợp với giá trị giao dịch thực tế, vì chỉ bằng 1/10 giá trường tại thời điểm bồi thường, nên bà T yêu cầu hủy quyết định này.

Tại bản án hành chính sơ thẩm số 18/2022/HC-ST ngày 27/7/2022, Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh đã quyết định:

Căn cứ Điều 62, Điều 66, khoản 3 Điều 69, Điều 74, Điều 89 của Luật Đất đai; Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15-5-2014 của Chính phủ, quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; Nghị định số 148/2014/NĐ-CP ngày 18-12-2020 của Chính phủ, quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; Điều 32 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Bác yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện bà Phạm Thị Minh T, về yêu cầu hủy Quyết định số 1926/QĐ-UBND ngày 05-6-2021 của UBND huyện Dương Minh C về việc phê duyệt phương án chi tiết bồi thường, hỗ trợ cho bà Phạm Thị Minh T để giải phóng mặt bằng thực hiện dự án: đường Đất Sét – Bến Củi và buộc UBND huyện Dương Minh C bồi thường, hỗ trợ theo giá thị trường với số tiền 2.140.000.000 đồng.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên về án phí hành chính sơ thẩm và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 29/7/2022 người khởi kiện bà Phạm Thị Minh T làm đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Người đại diện theo uỷ quyền của bà Phạm Thị Minh T giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phúc thẩm phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát đối với việc giải quyết vụ án:

Về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn phúc thẩm: Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng theo quy định của Luật tố tụng hành chính; các đương sự tham gia tố tụng tại phiên tòa chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của Luật tố tụng hành chính.

Về kháng cáo của bà Phạm Thị Minh T: Thực hiện dự án đường đất sét Bến Cát, Uỷ ban nhân dân huyện Dương Minh C đã ra quyết định thu hồi đất của rất nhiều người trong đó có đất của bà T. Việc Uỷ ban nhân dân huyện ban hành quyết định 1926/QĐ-UBND ngày 05-6-2021 của UBND huyện Dương Minh C phê duyệt phương án bồi thường, mức giá bồi thường là đúng theo giá của tỉnh. Việc yêu cầu bồi thường theo giá thị trường là không có căn cứ. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà T, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ các chứng cứ có tại hồ sơ, lời khai của người khởi kiện, quan điểm của Viện kiểm sát. Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy việc Toà sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị Minh T là có căn cứ, bởi các lẽ sau:

[1] Về diện tích đất và mức giá bồi thường về đất theo Quyết định số 1926/QĐ-UBND ngày 05-6-2021 của UBND huyện Dương Minh C về phê duyệt phương án chi tiết bồi thường, hỗ trợ cho bà T:

Thực hiện dự án công trình đường Đất Sét – Bến Củi theo Quyết định 2517/QĐ-UBND ngày 27-10-2017 của UBND tỉnh Tây Ninh, thuộc trường hợp thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội, vì lợi ích quốc gia, công cộng được quy định tại Điều 62 của Luật đất đai. UBND huyện Dương Minh C tiến hành thu hồi đất của 114 hộ dân nằm trong dự án trong đó có đất bà Phạm Thị Minh T. Sau khi thực hiện việc đo đạc, khảo sát, điều tra, kiểm đếm đất và tài sản trên đất. Ngày 05-6-2021, UBND huyện Dương Minh C ban hành Quyết định số 1926/QĐ-UBND về phê duyệt phương án chi tiết bồi thường, hỗ trợ cho bà T; UBND huyện căn cứ vào Quyết định số 245/QĐ-UBND ngày 11-02-2020 của UBND tỉnh Tây Ninh về việc phê duyệt giá đất cụ thể để bồi thường đất thực hiện dự án đường Đất Sét – Bến Củi để áp giá bồi thường cho bà T là có căn cứ, cụ thể:

Về tổng diện tích đất bị thu hồi theo quyết định là: 179,8 m2 (thu hồi trong giấy CNQSDĐ 122,8 m2 (gồm đất ở nông thôn 103,6 m2; đất cây lâu năm 19,2 m2) và thu hồi ngoài giấy CNQSDĐ 57 m2). Về mức giá bồi thường:

+ Đất ở nông thôn vị trí 1, khu vực II, xã Loại 2 (xã Bến Củi), đơn giá: 1.010.850 đồng/m² X 103,6 m2 = 104.724.060 đồng.

+ Đất nông nghiệp ven đường (đất cây trồng lâu năm) thuộc vị trí 1, khu vực II, xã Loại 2 (xã Bến Củi), đơn giá 230.000 đồng/m² X 76,2 m2 = 17.526.000 đồng.

Tổng cộng bồi thường, hỗ trợ về đất là: 122.250.060 đồng là đúng pháp luật.

[2] Về bồi thường tài sản trên đất: tại Biên bản kiểm tra, kiểm đếm, hiện trạng ngày 01-10 2019, Bà T và đoàn kiểm tra thống nhất tài sản trên đất bà T, nên UBND huyện Dương Minh C áp giá đền bù đúng theo quy định của Quyết định số 02/2020/QĐ-UBND ngày 07-02-2020 của UBND tỉnh Tây Ninh quy định giá bồi thường cây trồng và vật nuôi là thủy sản khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Tây Ninh và Quyết định số 58/QĐ-UBND ngày 26-12-2019 của UBND tỉnh Tây Ninh ban hành bảng đơn giá nhà, công trình xây dựng, vật kiến trúc trên địa bàn tỉnh Tây Ninh để áp mức giá bồi cho bà T là phù hợp với Điều 89 của Luật Đất đai, cụ thể: bồi thường, hỗ trợ về vật kiến trúc, cây trồng và vật nuôi là thủy sản, tổng cộng là 130.814.835 đồng. Do đó, yêu cầu khởi kiện của bà T là không có cơ sở chấp nhận.

Từ những phân tích trên Hội đồng xét xử phúc thẩm, bác yêu cầu kháng cáo của bà Phạm Thị Minh T, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[3] Do yêu cầu kháng cáo không được chấp nhận nên bà Phạm Thị Minh T phải chịu án phí hành chính phúc thẩm.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 241 Luật tố tụng hành chính.

- Không chấp nhận kháng cáo của bà Phạm Thị Minh T; giữ nguyên Bản án hành chính sơ thẩm số 18/2022/HCST ngày 27/7/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh.

Áp dụng Điều 62, Điều 66, khoản 3 Điều 69, Điều 74, Điều 89 của Luật Đất đai; Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15-5-2014 của Chính phủ, quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; Nghị định số 148/2014/NĐ-CP ngày 18-12-2020 của Chính phủ, quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; Điều 32 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Bác yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện bà Phạm Thị Minh T, về yêu cầu hủy Quyết định số 1926/QĐ-UBND ngày 05-6-2021 của UBND huyện Dương Minh C về việc phê duyệt phương án chi tiết bồi thường, hỗ trợ cho bà Phạm Thị Minh T để giải phóng mặt bằng thực hiện dự án: đường Đất Sét – Bến Củi và buộc UBND huyện Dương Minh C bồi thường, hỗ trợ theo giá thị trường với số tiền 2.140.000.000 đồng.

- Án phí hành chính phúc thẩm: Bà Phạm Thị Minh T phải chịu 300.000 đồng án phí hành chính sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng đã nộp theo biên lai thu số 0000334 ngày 05/8/2022 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Tây Ninh. Bà T đã nộp xong.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị theo quy định pháp luật.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

181
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính trong quản lý đất đai số 308/2023/HC-PT

Số hiệu:308/2023/HC-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hành chính
Ngày ban hành: 11/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về