TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH PHÚ YÊN
BẢN ÁN 25/2020/HC-ST NGÀY 10/09/2020 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC THU HỒI, BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ ĐẤT ĐAI
Ngày 10 tháng 9 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý 34/2016/TLST-HC ngày 12 tháng 12 năm 2016 về việc “khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực thu hồi, bồi thường, hỗ trợ về đất đai” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 37/2020/QĐXXST-HC ngày 11 tháng 8 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 35/2020/QĐST-HC ngày 03 tháng 9 năm 2020 của TAND tỉnh Phú Yên, giữa các đương sự:
1. Người khởi kiện: Vợ chồng bà Tô Thị Thu H – sinh năm 1976, ông Nguyễn Thanh Q – sinh năm 1969.
Địa chỉ: Tổ 2A, khu vực I, phường Đống Đa, TP. Quy Nhơn, tỉnh Bình Định. Vắng mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện: Ông Trần Duy T – sinh năm 1967; địa chỉ: Khu vực B, phường Nhơn Phú, Tp. Quy Nhơn, tỉnh Bình Định. Có mặt.
2. Người bị kiện:
2.1 Chủ tịch UBND tỉnh Phú Yên; Vắng mặt lần 2, có văn bản đề nghị xét xử vắng mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Chủ tịch UBND tỉnh Phú Yên: Ông Ngô Quang P – Phó giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Phú Yên. Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.
2.2 Ủy ban nhân dân thị xã S. tỉnh Phú Yên;
2.3 Chủ tịch UBND thị xã S, tỉnh Phú Yên.
Đều vắng mặt lần 2, có văn bản đề nghị xét xử vắng mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của UBND thị xã S, Chủ tịch UBND thị xã S: Phạm Văn C – Trưởng phòng Tài nguyên và Môi trường thị xã S. Có mặt
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1 Ủy ban nhân dân phường X, thị xã S; Vắng mặt lần 2, có văn bản đề nghị xét xử vắng mặt.
3.2 Ông Tô M, sinh năm 1937; trú tại: Khu phố LHB, Phường X, Thị xã S, tỉnh Phú Yên. Vắng mặt.
3.3 Ông Tô D, sinh năm 1963, Trú tại: Khu phố LHB, phương X, thị xã S. Vắng mặt.
3.4 Ông Tô H, sinh năm 1961; Trú tại: 145/3 Cách mạng tháng tám, phường Vĩnh Lợi, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang. Vắng mặt.
3.5 Ông Tô T, sinh năm 1971; trú tại: Khu phố LHB, Phường X, Thị xã S, tỉnh Phú Yên. Vắng mặt.
3.6 Bà Tô Thị Thu H1, sinh năm 1969; trú tại: Khu phố LHB, Phường X, Thị xã S, tỉnh Phú Yên. Có mặt.
3.7 Ông Tô Văn Đ, sinh năm 1980; Trú tại: Khu phố LHB, Phường X, Thị xã S, tỉnh Phú Yên. Vắng mặt.
3.8 Bà Tô Thị Hồng H, sinh năm 1965; Trú tại: Khu phố LHB, Phường X, Thị xã S, tỉnh Phú Yên. Vắng mặt.
3.9 Bà Tô Thị Thu H2, sinh năm 1973; Khu phố LHB, Phường X, Thị xã S, tỉnh Phú Yên. Vắng mặt.
3.10 Bà Tô Thị H, sinh năm 1982; Khu phố LHB, Phường X, Thị xã S, tỉnh Phú Yên. Vắng mặt.
3.11 Bà Tô Thị Thu M, sinh năm 1967; Trú tại: Thôn Hảo Danh, xã Xuân Thọ 2, thị xã S, tỉnh Phú Yên. Vắng mặt.
3.12 Chị Nguyễn Thị Minh A – sinh năm 2004; Trú tại: Tổ 2A, khu vực I, phường Đ, TP. Q, tỉnh Bình Định. Vắng mặt.
3.13 Chị Nguyễn Thị Mỹ Q – sinh năm 2008; Tổ 2A, khu vực I, phường Đ, TP. Q, tỉnh Bình Định. Vắng mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của ông H, ông T, ông Đ, bà H1, bà H2, bà H: Ông Tô D – sinh năm 1963. Có mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của ông Tô M, bà Tô Thị Thu M, chị Nguyễn Thị Minh A và chị Nguyễn Thị Mỹ Q: Ông Trần Duy T – sinh năm 1967; địa chỉ: Khu vực 7, phường N, Tp. Q, tỉnh Bình Định. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Người khởi kiện, người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện trình bày: Năm 1974, vợ chồng ông Tô M (cha của bà Tô Thị Thu H) có mua thửa đất vườn dừa của ông Nguyễn Ngọc Linh và bà Trần Thị Kim với diện tích trong giấy tờ bán là 1.500 m2, nhưng diện tích sử dụng thực tế là trên 3.500m2, tọa lạc tại xứ Đồng Hố Gia, thuộc khu phố LHB, phường X, thị xã S, tỉnh Phú Yên, trên đất có 01 ngôi nhà cấp 4, có giới cận như sau: Đông giáp đất thổ mộ công cộng (nay là sân vận động thị xã S), Tây giáp đường mòn (nay là đại lộ Võ Thị Sáu); Nam giáp đất ông Tô Văn Bá (nay là đất công cộng, sân vận động thị xã S); Bắc giáp đất ông Trương Chứ (khu nhà chế biến thức ăn gia súc). Từ khi mua thửa đất trên, gia đình ông Minh sử dụng xây nhà ổn định không lấn chiếm đất của cá nhân hay nhà nước, có ranh giới, tứ cận cố định không bị tranh chấp, khiếu nại hoặc bị xử phạt về hành vi lấn chiếm đất của cá nhân hoặc Nhà nước.
Đến năm 2003, ông Minh có lập bảng phân chia nhà đất cho các con sở hữu sử dụng, phần nhà đất của ông còn lại là 1.250 m2, được Ủy ban nhân dân thị xã S kiểm tra, xác nhận đóng dấu là hợp pháp. Theo đó, bà Tô Thị Thu H được chia diện tích 96,8m2 (4,6mx22m).
Ngày 31/8/2011, UBND thị xã S ban hành Quyết định số 5332/QĐ-CT về việc thu hồi đất diện tích 112,7 m2 của gia đình bà để thực hiện Công trình Sân thể thao cơ bản thị xã S (giai đoạn 1), nhưng chỉ bồi thường đối với diện tích 78,6m2 còn lại 34,1 m2 là đất bằng chưa sử dụng do UBND phường X quản lý nên không bồi thường.
Không đồng ý, bà Tô Thị Thu H khiếu nại lên Chủ tịch UBND thị xã S. Ngày 06/01/2012, Chủ tịch UBND thị xã S ban hành Quyết định số 27/QĐ- UBND về việc giải quyết khiếu nại của bà Tô Thị Thu H. Nội dung giải quyết bác toàn bộ nội dung đơn khiếu nại. Bà Tô Thị Thu H tiếp tục khiếu nại lần 2. Ngày 06/3/2013, Chủ tịch UBND tỉnh Phú Yên ban hành Quyết định số 412/QĐ-UBND về việc giải quyết khiếu nại của bà Tô Thị Thu H (lần 2) không chấp nhận yêu cầu khiếu nại của bà Hải.
Do đó, vợ chồng bà Tô Thị Thu H, ông Nguyễn Thanh Q khởi kiện yêu cầu:
- Hủy Quyết định số 5332/QĐ-CT ngày 31/8/2011 của UBND thị xã S “V/v Thu hồi đất đối với hộ bà Tô Thị Thu H để thực hiện Công trình Sân thể thao cơ bản thị xã S (giai đoạn 1)” và Quyết định số 5421/UBND ngày 13/11/2013 của UBND thị xã S “V/v Đính chính một số nội dung trong Quyết định 5332/QĐ- CT ngày 31/8/2011 của UBND thị xã S V/v thu hồi đất đối với hộ bà Tô Thị Thu H để thực hiện công trình Sân thể thao cơ bản thị xã S (giai đoạn 1)”;
- Hủy một phần Quyết định số 6846/QĐ-UBND ngày 23/12/2011 của UBND thị xã S “V/v phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư công trình: Sân thể thao cơ bản thị xã S” đối với hộ bà Tô Thị Thu H.
- Hủy Quyết định giải quyết khiếu nại số 27/QĐ-UBND ngày 06/01/2012 của Chủ tịch UBND thị xã S.
- Hủy Quyết định giải quyết khiếu nại số 412/QĐ-UBND ngày 06/03/2013 của Chủ tịch UBND tỉnh Phú Yên.
- Buộc UBND thị xã S lập phương án thu hồi, bồi thường, hỗ trợ đối với diện tích đất gia đình vợ chồng bà Tô Thị Thu H, ông Nguyễn Thanh Q đang khiếu kiện bị ảnh hưởng giải phóng mặt bằng để thực hiện dự án công trình Sân thể thao cơ bản thị xã S đúng quy định pháp luật.
Tại bản trình bày ý kiến và các văn bản trình bày trong quá trình giải quyết vụ án, người bị kiện Chủ tịch UBND tỉnh Phú Yên trình bày:
Về nguồn gốc và quá trình sử dụng đất của ông Tô M (cha của bà Tô Thị Thu H): Năm 1974, ông Tô M có nhận chuyển nhượng 1.500 m2 đất vườn dừa của ông Nguyễn Ngọc Linh (thể hiện tại Giấy bán đoạn đất vườn dừa lập ngày 19/9/1974 được Ủy ban hành chính xã Xuân Phương chứng thực, có giới cận: Đông giáp đất thổ mộ công cộng; Tây giáp ruộng bà Hồ Thị Thơm; Nam giáp ruộng ông Tô Phú; Bắc giáp đất ông Trương Chứ.
Gia đình ông Tô M sử dụng đất để sản xuất nông nghiệp từ năm 1974. Trong quá trình sử dụng đất, ông Tô M có làm 01 trại canh, ban đầu chỉ là kết cầu mái tranh, xung quanh dựng lá dừa trên diện tích đất khoảng 30m2. Quá trình sử dụng đã nhiều lần nâng cấp, sửa chữa, xây dựng thành nhà ở cấp 4, mái ngói, tường gạch, nền xi măng, diện tích khoảng 100m2 mà địa phương không có ý kiến gì.
Năm 1992, kết quả đo đạc thống kê đất đai theo Quyết định 299/TTg của Thủ tướng Chính phủ thể hiện đất của hộ ông Tô M sử dụng thuộc thửa số 30, Tờ bản đồ số 3 với diện tích 2.885m2, trên đất có nhà ở. Thửa đất có giới cận: phía Đông và phía Tây giáp đường mòn (nay là đường Võ Thị Sáu); Nam giáp đất thuộc quy hoạch công trình xây dựng sân thể thao huyện Đồng Xuân đã được thu hồi, san ủi mặt bằng trước đây; phía Bắc giáp khu nhà chế biến thức ăn gia súc (sau năm 1980, Nhà nước thu hồi đất của ông Trương Chứ để xây dựng khu nhà chế biến thức ăn gia súc). Kích thước các cạnh của thửa đất: Cạnh phía Đông 68,3m, cạnh phía Tây 59,6m, cạnh phía Nam 48,6m, cạnh phía Bắc 45,4m. Trên đất có nhà ở do gia đình ông Tô M tự xây dựng.
Đến năm 1998, kết quả đo đạc theo hồ sơ địa chính thể hiện thửa đất hộ ông Tô M có tổng diện tích 3.589,4m2 (thửa số 8, tờ bản đồ số 9), tăng 704,4m2 so với diện tích thể hiện trong hồ sơ địa chính năm 1992. Giới cận thửa đất như sau: phía Đông giáp đất quy hoạch công trình sân thể thao cơ bản huyện Đồng Xuân đã được thu hồi, san ủi mặt bằng trước đây (thời điểm này đường mòn phía Đông đất ông Minh không còn thể hiện trên bản đồ địa chính II); Tây giáp đường mòn (nay là đường Võ Thị Sáu); Nam giáp đất thuộc quy hoạch công trình xây dựng sân thể thao huyện Đồng Xuân đã được thu hồi, san ủi mặt bằng trước đây; phía Bắc giáp khu nhà chế biến thức ăn gia súc. Kích thước các cạnh của thửa đất như sau: Cạnh phía Đông Bắc 15,19m, cạnh phía Đông 52,49m; cạnh phía Đông Nam 5,46m; cạnh phía Tây 62,68m, cạnh phía Nam 50,47m, cạnh phía Bắc 46,95m (các kích thước này được đo từ bản đồ địa chính II).
Đối chiếu với Bản đồ 299/TTg, con đường mòn tiếp giáp phía Đông thửa đất của ông Tô M và các con không còn thể hiện trên bản đồ địa chính II, đồng thời hình thể thửa đất đã thay đổi. Cụ thể: Trong Bản đồ 299/TTg thửa đất có hình tứ giác (không bao gồm đường đi và một phần diện tích đát phía Nam của thửa đất hiện nay). Đến Bản đồ địa chính II thì thửa đất có hình lục giác, đường đi phía Đông không còn, cạnh phía Đông của thửa đất từ đường thẳng đã chuyển thành đường gấp khúc 03 đoạn tương ứng gồm cạnh phía Đông Bắc 15,19m, cạnh phía Đông 52,49m, cạnh phía Đông Nam 5,46m. Đồng thời, qua áp dụng kỹ thuật chuyên ngành số hóa bản đồ do Trung tâm Công nghệ thông tin Tài nguyên và môi trường trực thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường thực hiện gồm có các bước như: Scan (quét ảnh) Bản đồ 299/TTg và Bản đồ địa chính, nắn ảnh vào khung bản đồ, dùng phần mềm microstation vẽ lại đường nét theo ảnh, tiến hành chồng xếp các thửa đất của 02 loại bản đồ trên nhận thấy hình dang thửa đất có sự khác biệt, cụ thể: hình dạng kích thước hình học cạnh thửa đất (phía Bắc và phía Tây) trùng khớp, riêng hình dạng và kích thước cạnh phía Đông bị lệch về phía Đông (tương ứng với đường đi đã mất) và cạnh phía Nam cũng bị lệch về hướng Nam.
Năm 2002, thực hiện công trình xây dựng đường Hoàng Hoa Thám, UBND huyện S đã ra quyết định thu hồi 413,44 m2 đất (cây lâu năm) dọc theo cạnh phía Tây của thửa đất hộ ông Tô M để xây rãnh thoát nước dọc đường Võ Thị Sáu hiện nay. Gia đình ông Tô M đã chấp nhận việc giải tỏa và nhận tiền đền bù.
Năm 2008, UBND huyện S tiếp tục thực hiện Dự án làm đường Võ Thị Sáu, thửa đất ông Tô M và các con có diện tích 427,3m2 thuộc phạm vi ảnh hưởng. Trong diện tích 427,3m2 này, UBND huyện đã có quyết định thu hồi 268,8m2 đất (loại đất trồng cây lâu năm), phần diện tích 158,5m2 còn lại trong mái taluy đường Võ Thị Sáu theo chủ trương của UBND huyện S chỉ mượn đất để thi công mà không thu hồi tại thời điểm đó.
Như vậy, tổng diện tích của ông Tô M bị Nhà nước thu hồi để thực hiện công trình rãnh thoát nước và công trình đường Võ Thị Sáu là 682,24m2 (413,44 m2 + 268,8m2 ). Đối chiếu với kết quả đo đạc trong hồ sơ địa chính năm 1992, sau khi trừ diện tích đất bị nhà nước thu hồi thì diện tích đất được phép sử dụng của hộ ông Tô M còn lại đến năm 2008 là 2.202,76m2 (2.885 m2 – 682,24 m2).
Đến năm 2010, theo kết quả đo đạc của Trung tâm kỹ thuật Tài nguyên và Môi trường tỉnh phú Yên thì toàn bộ diện tích đất thực tế do ông Tô M và các con đang sử dụng là 3.016,5m2, tăng 813,74m2 (3016,5-2.202,76 m2) so với diện tích đất thuộc quyền sử dụng hợp pháp của hộ ông Tô M theo hồ sơ địa chính năm 1992, sau khi đã trừ đi phần diện tích đất thu hồi năm 2002 và năm 2008 để thực hiện 02 Dự án nêu trên.
Giới cận thửa đất như sau: Đông giáp đất quy hoạch công trình sân thể thao cơ bản huyện S; Tây giáp đường Võ Thị Sáu; Nam giáp đất quy hoạch công trình sân thể thao cơ bản huyện S; Bắc giáp khu nhà chế biến thức ăn gia súc.
Trong diện tích đất 3.016,5m2 nêu trên, hộ bà Tô Thị Thu H sử dụng 34,1m2 nằm ngoài phạm vi diện tích đất thể hiện trong hồ sơ địa chính năm 1992.
Qua kiểm tra, trực tiếp làm việc, các con và Tô M đều không cung cấp được bất kỳ tài liệu, chứng cứ chứng minh tính hợp pháp cho phần diện tích đất tăng thêm 813,74m2 nêu trên của hộ ông Tô M và các con (trong đó phần diện tích 34,1m2 bà Tô Thị Thu H đang khiếu kiện) nên việc bà Hải yêu cầu bồi thường hỗ trợ đối với diện tích 34,1m2 là không có cơ sở.
Từ những cơ sở nêu trên, Việc Chủ tịch UBND tỉnh ban hành Quyết định số 412/QĐ-UBND ngày 06/3/2013 là có căn cứ pháp luật. Do đó, bà Tô Thị Thu H khởi kiện yêu cầu TAND tỉnh hủy Quyết định số 412/QĐ-UBND của Chủ tịch UBND tỉnh giải quyết đơn khiếu nại của bà Tô Thị Thu H là không có căn cứ pháp luật.
Người bị kiện UBND thị xã S, chủ tịch UBND thị xã S trình bày:
Tại thời điểm giải quyết khiếu nại thì UBND thị xã S, Chủ tịch UBND thị xã S thống nhất theo quan điểm giải quyết của Chủ tịch UBND tỉnh. Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết vụ án, UBND thị xã S, Chủ tịch UBND thị xã S nhận thấy người khởi kiện bà Tô Thị Thu H là con của ông Tô M, đồng thời diện tích đất đang khiếu kiện có nguồn gốc là của ông Tô M để lại.
Vụ án hành chính do ông Tô M khởi kiện Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Yên, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị xã S đã được Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên và Tòa án nhân dân Cấp cao tại Đà Nẵng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Tô M (Theo bản án số 05/2016/HCST ngày 23/6/2016 của TAND tỉnh Phú Yên và Bản án số 35/2017/HCPT ngày 07/3/2017 của TAND Cấp cao tại Đà Nẵng). Bản án đã có hiệu lực pháp luật thi hành và Uỷ ban nhân dân thị xã S, tỉnh Phú Yên đã tiến hành lập lại phương án bồi thường hỗ trợ cho ông Tô M theo quy định.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan UBND phường X trình bày: Thống nhất theo quan điểm giải quyết của UBND tỉnh Phú Yên.
Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan các ông, bà: Tô M, Tô Dũng, Tô Hùng, Tô Thu, Tô Thị Thu Hương , Tô Văn Đức, Tô Thị Hồng Hoa, Tô Thị Thu Hà, Tô Thị Hạnh, Tô Thị Thu Mai: Thống nhất với trình bày của người khởi kiện, yêu cầu Tòa án giải quyết theo đúng quy định pháp luật để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của gia đình chúng tôi.
Tòa án đã tiến hành tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và tiến hành đối thoại để các đương sự thống nhất với nhau về việc giải quyết vụ án, nhưng các bên đương sự vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, người bị kiện vẫn giữ nguyên quyết định hành chính bị kiện. Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên mở phiên tòa sơ thẩm xét xử công khai vụ án hành chính để Hội đồng xét xử xem xét, quyết định.
Tại phiên tòa:
Người khởi kiện giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện UBND thị xã S, Chủ tịch UBND thị xã S trình bày: Thống nhất thu hồi, hủy bỏ các quyết định hành chính bị kiện để lập phương án thu hồi, bồi thường, hỗ trợ lại theo đúng quy định của pháp luật khi người bị kiện Chủ tịch UBND tỉnh Phú Yên thu hồi, hủy bỏ Quyết định giải quyết khiếu nại lần 2.
Đại diện viện kiểm sát phát biểu tại phiên tòa: Việc tuân theo pháp luật của thành viên Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đúng quy định pháp luật; Về nội dung: Đề nghị HĐXX căn cứ điểm b, khoản 2, điều 193 Luật tố tụng hành chính chấp nhận toàn bộ yêu cầu của người khởi kiện.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, lời trình bày của các đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, đại diện viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Yên, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Người bị kiện Chủ tịch UBND tỉnh Phú Yên, UBND thị xã S, Chủ tịch UBND thị xã S và UBND phường X vắng mặt nhưng có văn bản đề nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ vào Điều 158 luật tố tụng hành chính, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án.
[2] Về đối tượng khởi kiện và thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Ngày 02/01/2014 Tòa án nhân dân thị xã S thụ lý vụ án hành chính giữa người khởi kiện bà Tô Thị Thu H và người bị kiện UBND thị xã S, theo đó bà Tô Thị Thu H khởi kiện yêu cầu hủy các Quyết định hành chính của UBND thị xã S, Quyết định số 27/QĐ-UBND ngày 06/01/2012 của Chủ tịch UBND thị xã S về việc giải quyết khiếu nại đối với bà Tô Thị Thu H lần đầu và Quyết định số 412/QĐ- UBND ngày 06/3/2013 của Chủ tịch UBND tỉnh Phú Yên về việc giải quyết khiếu nại của bà Tô Thị Thu H lần 2 (có nội dung giữ nguyên quyết định hành chính lần đầu). Tại thời điểm TAND thị xã S thụ lý, giải quyết thì Quyết định 412/QĐ-UBND ngày 06/3/2013 của Chủ tịch UBND tỉnh Phú Yên không phải là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính quy định tại Điều 28 Luật tố tụng hành chính 2010 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Ngày 15/010/2015 Hội đồng thẩm phán TAND tối cao ban hành Nghị quyết 01/2015/NQ-HĐTP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị quyết 02/2011/NQ-HĐTP ngày 29/7/2011 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao, xác định quyết định giải quyết khiếu nại lần hai (có nội dung giữ nguyên quyết định hành chính ban đầu) là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính. Do đó, TAND thị xã S quyết định chuyển hồ sơ vụ án cho TAND tỉnh Phú Yên thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền.
[3] Quá trình thu hồi, bồi thường đất của bà Tô Thị Thu H để thực hiện dự án: Diện tích đất bà Tô Thị Thu H đang khiếu kiện có nguồn gốc của ông Tô M tặng cho theo bảng phân chia nhà đất năm 2003 (toàn bộ diện tích đất này ông Tô M chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất), xét nguồn gốc, quá trình sử dụng đất của ông Tô M, HĐXX nhận thấy:
[3.1] Ngày 19/9/1974 ông Nguyễn Ngọc Linh cùng các con lập “Giấy bán đoạn đất vườn dừa” cho ông Tô M diện tích là 1.500m2 (có xác định tứ cận) và được UBND hành chính xã Xuân Phương chứng thực ngày 19/9/1974. Tại bản đồ đo đạc năm 1999 (theo Chỉ thị 299/TTg của Thủ tướng Chính phủ) thể hiện diện tích đất của hộ ông Tô M là 2.885m2 thuộc thửa đất số 30, tờ bản đồ số 3, loại đất (T); trên đất có nhà ở của gia đình ông Minh xây dựng từ năm 1990.
[3.2] Theo bản đồ địa chính II đo đạc năm 1998 thì hộ ông Tô M có tổng diện tích 3.589,4m2 thuộc thửa đất số 8 tờ bản đồ số 9 và một phần thuộc tờ bản đồ số 2 bản đồ địa chính II. Theo bản đồ 299 thì phía Đông thửa đất của gia đình ông Tô M thể hiện con đường mòn, phía sau đường mòn là các thửa đất 31, 32, 33; còn bản đồ địa chính II năm 1998 xác định rõ giới cận ranh giới các thửa liền kề không còn có đường mòn, nhưng UBND thị xã S xác định là con đường mòn và các thửa đất phía sau đã bị san ủi, giải phóng mặt bằng.
[3.3] Ngày 29/01/1985, Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Khánh (nay là tỉnh Phú Yên) có Quyết định số 98/UB cấp đất xây dựng công trình sân thể thao cơ bản huyện Đồng Xuân (nay là thị xã S) có tổng diện tích là 20.000m2. Tuy nhiên, tại thời điểm đo đạc bản đồ địa chính II năm 1998 được thể hiện là thửa đất số 12 có diện tích 31.753,8m2 (tăng 11.753,8m2) so với Quyết định cấp đất số 98/UB và phần tăng thêm nằm ở phía Đông và phía Nam thửa đất của hộ gia đình ông Tô M. Mặc khác, thời điểm năm 1993, khi UBND tỉnh Phú Yên phê duyệt đồ án, các cơ quan chức năng không thực hiện việc cắm mốc xác định ranh giới diện tích quy hoạch đã quản lý nên không có cơ sở xác định gia đình ông Minh lấn chiếm đất; tuy nhiên, mặc dù phần diện tích đất gia đình ông Tô M sử dụng chưa có tên trong sổ địa chính, Sổ đăng ký ruộng đất nhưng gia đình ông Tô M đã được Nhà nước đo đạc lập Bản đồ địa chính II và có xác nhận của các cơ quan có thẩm quyền về hiện trạng quản lý, sử dụng. Tại biên bản làm việc ngày 10/10/2002, UBND phường X xác định: Diện tích đất của gia đình ông Tô M được đo đạc Bản đồ địa chính II chưa vào Sổ đăng ký ruộng đất, Sổ địa chính từ khi đo đạc đến năm 2006… Từ năm 2006, ông Tô M đã kê khai và được UBND thị trấn S (nay là phường X) lập danh sách các hộ kê khai và được UBND thị trấn S ký xác nhận ngày 20/11/2006.
[3.4] Năm 2002 và năm 2008, UBND huyện S thu hồi 682,24m2 đất của gia đình ông Tô M để thực hiện dự án xây rãnh thoát nước đường Võ Thị Sáu và làm đường Võ Thị Sáu. Để thực hiện dự án xây dựng công trình sân thể thao cơ bản huyện S (giai đoạn 1), năm 2010 Trung tâm kỹ thuật Tài nguyên và Môi trường tỉnh Phú Yên đã tiến hành đo đạc toàn bộ diện tích đất ông Tô M và các con của ông Tô M đang thực tế quản lý, sử dụng. Kết quả đo đạc cho thấy tổng diện tích đất gia đình ông Tô M đang quản lý, sử dụng là 3.016,5m2, tăng 813,74m2 (3.016,5m2 – 2.202,76m2) so với diện tích đất theo bản đồ 299 sau khi đã trừ đi diện tích đất Nhà nước thu hồi năm 2002 và 2008, xác định rõ tứ cận ranh giới các thửa đất liền kề (không thể hiện có sự lấn chiếm). Trong quá trình gia đình ông Tô M quản lý, sử dụng đất từ khi nhận chuyển nhượng (năm 1974) đến nay thì diện tích có biến động tăng qua các thời kỳ: Khi ông Tô M nhận chuyển nhượng đất, trên giấy tờ ghi diện tích là 1.500m2 nhưng không đo đạc thực tế; theo bản đồ 299 đo đạc năm 1992 là 2.885m2; theo bản đồ địa chính II đo đạc năm 1998 thì diện tích đất của gia đình ông Tô M đang quản lý, sử dụng là 3.589,4m2. UBND thị xã S và UBND tỉnh Phú Yên chỉ công nhận cho hộ gia đình ông Tô M diện tích 2.885m2 theo bản đồ 299 (lý do sử dụng trước ngày 15/10/1993), không công nhận diện tích 3.589,4m2 theo bản đồ đo đạc năm 1998 vì cho rằng diện tích tăng thêm theo bản đồ đo đạc 1998 là do lấn chiếm.
[3.5] Căn cứ khoản 13 và khoản 17 Điều 4 Luật đất đai năm 2003 (nay là khoản 4 và khoản 5 Điều 3 Luật đất đai năm 2013); khoản 4 Điều 40 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành Luật đất đai; tiểu mục 2.2, mục 2, phần I Thông tư số 29/2004/TT-BTNMT ngày 01/11/2004 của Bộ Tài nguyên và Môi trường về việc hướng dẫn lập, chỉnh lý, quản lý hồ sơ địa chính; Điều 11, 12, 22 Thông tư số 25/2014/TT-BTNMT ngày 19/5/2014 của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định về Bản đồ địa chính, thì bản đồ địa chính II năm 1998 được lập theo đúng quy định, phù hợp với hiện trạng quản lý sử dụng đất.
[3.6] Năm 2003, ông Minh có lập bảng phân chia nhà đất cho các con sở hữu sử dụng, được Ủy ban nhân dân thị xã S kiểm tra, xác nhận. Theo đó, bà Tô Thị Thu H được chia diện tích 96,8m2 (4,4mx22m) có tứ cận Đông giáp phần đất công cộng, Tây giáp phần đất chia cho ông Tô Hùng, Nam giáp phần đất được chia cho bà Tô Thị Thu Hà, Bắc giáp phần đất được chia cho bà Tô Thị Hạnh. Nhưng Chủ tịch UBND tỉnh Phú Yên cho rằng ông Tô M và các con lấn chiếm đất ở phía Đông và Phía Nam, nhưng không chứng minh được thời điểm gia đình ông Tô M lấn chiếm đất, diện tích lấn chiếm; các cơ quan có thẩm quyền của địa phương không phát hiện và xử lý việc ông Tô M và các con lấn chiếm đất theo quy định của pháp luật. Chủ tịch UBND tỉnh Phú Yên căn cứ vào Bản đồ đo đạc năm 1992 theo Chỉ thị 299 và Bản đồ địa chính II đo đạc năm 1998 để cho rằng diện tích đất của gia đình ông Minh tăng là do ông Tô M lấn chiếm đất của Sân vận động; tuy nhiên, phần diện tích đất của Sân vận động cũng tăng so với Quyết định số 98/UB ngày 19/01/1985, nên không có căn cứ xác định diện tích ông Tô M và các con là đất do UBND phường X quản lý.
[3.7] Về Biên bản phân chia đất cho các con HĐXX nhận thấy: Mặc dù biên bản đã được UBND thị trấn S (nay là UBND phường X) ký xác nhận nhưng như nhận định ở trên thì toàn bộ diện tích đất ông Tô M nhận chuyển nhượng từ năm 1974 chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên việc tặng cho này chưa phù hợp quy định của Luật đất đai 1993 và điểm a khoản 1 Điều 105 Luật đất đai 2003 “1. Người sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất; thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất theo quy định tại khoản 2 Điều 110; khoản 2 và khoản 3 Điều 112; các khoản 2, 3, 4, 5, 6, 7 và 8 Điều 113; khoản 2 Điều 115; điểm b khoản 1, các điểm b, c, d, đ và e khoản 3 Điều 119; điểm b khoản 1, điểm b và điểm c khoản 2 Điều 120 của Luật này khi có các điều kiện sau đây: a) Có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;…)”, đồng thời sau khi được phân chia thì ông Tô M và các con (trong đó có bà Tô Thị Thu H) chưa tiến hành các thủ tục đăng ký sang tên, tách thửa theo quy định pháp luật. Đồng thời diện tích sử dụng đất của các con ông Tô M tại thời điểm nhà nước thu hồi có sự thay đổi so với diện tích theo bản phân chia năm 2003.
[3.8] Do xác định diện tích đất của gia đình ông Tô M và các con của ông Tô M không đúng nên UBND thị xã S ban hành Quyết định thu hồi đất đối với hộ gia đình bà Tô Thị Thu H không đúng dẫn đến các Quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đối với hộ gia đình bà Tô Thị Thu H và các Quyết định giải quyết đơn khiếu nại của bà Tô Thị Thu H cũng không đúng.
[4] Mặc khác: Xét thấy, người khởi kiện bà Tô Thị Thu H là con của ông Tô M, đồng thời diện tích đất bà Tô Thị Thu H đang khiếu kiện có nguồn gốc là của ông Tô M để lại. Vụ án hành chính do ông Tô M khởi kiện Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Yên, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị xã S đã được Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên và Tòa án nhân dân Cấp cao tại Đà Nẵng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Tô M (Theo bản án số 05/2016/HCST ngày 23/6/2016 của TAND tỉnh Phú Yên và Bản án số 35/2017/HCPT ngày 07/3/2017 của TAND Cấp cao tại Đà Nẵng). Bản án đã có hiệu lực pháp luật thi hành và Uỷ ban nhân dân thị xã S, tỉnh Phú Yên đã tiến hành lập lại phương án bồi thường hỗ trợ cho ông Tô M theo quy định.
[4.1] Ngày 31/3/2017 Chủ tịch UBND tỉnh Phú Yên có văn bản số 1578/UBND-NC đề nghị Chánh án TAND tối cao xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm đối với 02 bản án nêu trên. Tuy nhiên, ngày 06/3/2020, TAND tối cao ban hành thông báo số 96/TB-TANDTC-VGĐKTIII về việc giải quyết đơn đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm. Theo đó, TAND tối cao trả lời không có căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với Bản án hành chính phúc thẩm số 35/2017/HCPT ngày 07/3/2017 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng theo yêu cầu của Chủ tịch UBND tỉnh Phú Yên. Đồng thời, Ngày 26/10/2018 và ngày 17/01/2019 UBND thị xã S ban hành Thông báo số 1003/TB-UBND và Thông báo số 125/TB-UBND giao cho các cơ quan chuyên môn và UBND phường X tiến hành thủ tục thu hồi, hủy bỏ các quyết định hành chính bị khiếu kiện trong các vụ án nêu trên để tiến hành lập phương án bồi thường, hỗ trợ theo đúng quy định.
[5] Với kết quả giải quyết vụ án nói trên TAND tỉnh Phú Yên đã tích cực tiến hành đối thoại nhưng các đương sự vẫn không thống nhất về hướng giải quyết đối với những vụ án có liên quan. TAND tỉnh Phú Yên đưa vụ án ra xét xử đúng quy định pháp luật.
[6] Từ những căn cứ nêu trên, HĐXX nhận thấy việc vợ chồng bà Tô Thị Thu H, ông Nguyễn Thanh Q khởi kiện là có cơ sở nên chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện: Hủy các quyết định hành chính bị khởi kiện và Buộc UBND thị xã S lập phương án thu hồi, bồi thường, hỗ trợ đối với diện tích đất gia đình bà Tô Thị Thu H đang khiếu kiện bị ảnh hưởng giải phóng mặt bằng để thực hiện dự án công trình Sân thể thao cơ bản thị xã S theo đúng quy định pháp luật.
[7] Về án phí: Bà Tô Thị Thu H không phải chịu án phí hành chính sơ thẩm; Chủ tịch UBND tỉnh Phú Yên, UBND thị xã S và Chủ tịch UBND thị xã S phải chịu án phí hành chính sơ thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng khoản 1 Điều 1 Nghị quyết 01/2015/NQ-HĐTP ngày 15/01/2015 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; các Điều 30; Điều 32; điểm b khoản 2 Điều 193; Điều 194; Điều 348 Luật tố tụng hành chính năm 2015; khoản 13 và khoản 17 Điều 4 Luật đất đai năm 2003 (nay là khoản 4 và khoản 5 Điều 3 Luật đất đai năm 2013); khoản 4 Điều 40 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành Luật đất đai; tiểu mục 2.2, mục 2, phần I Thông tư số 29/2004/TT-BTNMT ngày 01/11/2004 của Bộ Tài nguyên và Môi trường về việc hướng dẫn lập, chỉnh lý, quản lý hồ sơ địa chính; Điều 11, 12, 22 Thông tư số 25/2014/TT-BTNMT ngày 19/5/2014 của Bộ Tài nguyên và Môi trường; Khoản 2, Điều 32, khoản 1 Điều 48 Nghị quyết 326/NQ-UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; Điều 34 Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án năm 2009.
Tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của vợ chồng bà Tô Thị Thu H, ông Nguyễn Thanh Q:
- Hủy Quyết định số 5332/QĐ-CT ngày 31/8/2011 của UBND thị xã S “V/v Thu hồi đất đối với hộ bà Tô Thị Thu H để thực hiện Công trình Sân thể thao cơ bản thị xã S (giai đoạn 1)” và Quyết định số 5421/UBND ngày 13/11/2013 của UBND thị xã S “V/v Đính chính một số nội dung trong Quyết định 5332/QĐ- CT ngày 31/8/2011 của UBND thị xã S V/v thu hồi đất đối với hộ bà Tô Thị Thu H để thực hiện công trình Sân thể thao cơ bản thị xã S (giai đoạn 1)”;
- Hủy một phần Quyết định số 6846/QĐ-UBND ngày 23/12/2011 của UBND thị xã S “V/v phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư công trình: Sân thể thao cơ bản thị xã S” đối với hộ bà Tô Thị Thu H.
- Hủy Quyết định giải quyết khiếu nại số 27/QĐ-UBND ngày 06/01/2012 của Chủ tịch UBND thị xã S.
- Hủy Quyết định giải quyết khiếu nại số 412/QĐ-UBND ngày 06/03/2013 của Chủ tịch UBND tỉnh Phú Yên.
- Buộc UBND thị xã S lập phương án thu hồi, bồi thường, hỗ trợ đối với diện tích đất gia đình vợ chồng bà Tô Thị Thu H, ông Nguyễn Thanh Q đang khiếu kiện bị ảnh hưởng giải phóng mặt bằng để thực hiện dự án công trình Sân thể thao cơ bản thị xã S đúng quy định pháp luật.
Về án phí: Chủ tịch UBND tỉnh Phú Yên, UBND thị xã S và Chủ tịch UBND thị xã S phải liên đới chịu 200.000 đồng án phí hành chính sơ thẩm.
Hoàn trả lại cho bà Tô Thị Thu H 200.000 đồng tiền tạm ứng án phí hành chính sơ thẩm đã nộp tại biên lai số AA/2010/11329 ngày 02/01/2014 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã S, tỉnh Phú Yên.
Về quyền kháng cáo: Các đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được giao cho họ hoặc được niêm yết
Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực thu hồi, bồi thường, hỗ trợ đất đai số 25/2020/HC-ST
Số hiệu: | 25/2020/HC-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Phú Yên |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Ngày ban hành: | 10/09/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về