Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý Nhà nước đất đai và quyết định giải quyết khiếu nại số 334/2023/HC-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 334/2023/HC-PT NGÀY 15/05/2023 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐẤT ĐAI VÀ QUYẾT ĐỊNH GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI

Trong ngày 15 tháng 5 năm 2023, tại điểm cầu trung tâm: Phòng xét xử trực tuyến (số IV) Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội; điểm cầu thành phần: Phòng xét xử trực tuyến Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số 78/2023/TLPT-HC ngày 31 tháng 01 năm 2023 về việc “Khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý Nhà nước về đất đai và quyết định giải quyết khiếu nại”.Do Bản án hành chính sơ thẩm số 100/2022/HC-ST ngày 06 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh TB bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 4744/2023/QĐ-PT ngày 26 tháng 4 năm 2023 giữa các đương sự:

- Người khởi kiện: Bà Đoàn Thị T sinh năm 1950; địa chỉ: thôn PK, xã VP, thành phố TB, tỉnh TB (Có mặt).

- Người bị kiện:

1. Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh TB.

Người đại diện hợp pháp: Ông Lại Văn H - Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh TB (Văn bản ủy quyền ngày 07/02/2023) (Vắng mặt).

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh TB là ông Vũ Ngọc A – Trung tâm trợ giúp pháp lý Sở Tư pháp TB (Có mặt).

2. Ủy ban nhân dân thành phố TB, tỉnh TB.

3. Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố TB, tỉnh TB.

Người đại diện hợp pháp của Ủy ban nhân dân thành phố TB và Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố TB: Ông Nguyễn Văn Đ - Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thành phố TB, tỉnh TB (Văn bản ủy quyền ngày 23/12/2022 và ngày 02/3/202) (Vắng mặt).

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho Ủy ban nhân dân thành phố TB và Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố TB là ông Phạm Đình C sinh năm 1968; trú tại: phường HD, thành phố TB, tỉnh TB.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Chị Trần Thị Kim N, sinh năm 1983; nơi cư trú: phường TP, thành phố BH, tỉnh ĐN (Vắng mặt).

2. Anh Trần Ngọc Q, sinh năm 1985; nơi cư trú: phường TL, Quận B, thành phố HCM (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 05/7/2021 và quá trình giải quyết vụ án, người khởi kiện là bà Đoàn Thị T trình bày:

Hộ gia đình bà Đoàn Thị T được Nhà nước chia tiêu chuẩn ruộng theo 03 khẩu gồm có bà, ông Trần Mạnh P (chồng bà đã chết năm 1999) và anh Trần Ngọc Q (con bà). Bà và ông P có 03 con chung là Trần Thị Kim N, Trần Hải L (đã chết năm 2004, không có vợ con) và Trần Ngọc Q, được cấp khoảng 753m2 đất ruộng.

Ngày 05/8/2016, Ủy ban nhân dân (sau đây viết tắt là UBND) thành phố TB thực hiện việc thu hồi 753m2 đất của gia đình bà tại xã VP, thành phố TB. Cụ thể: Thu hồi tại thửa đất số 17, tờ bản đồ số 12, diện tích 458m2; thửa số 67, tờ bản đồ số 12, diện tích 239m2 và thửa số 248, tờ bản đồ số 12, diện tích 56m2 tại thôn PK, xã VP, thành phố TB, tỉnh TB.

Theo phương án bồi thường của UBND thành phố TB, gia đình bà được bồi thường, hỗ trợ 151.547.400 đồng. Quá trình thu hồi, bồi thường hỗ trợ tái định cư do UBND thành phố TB thực hiện tồn tại nhiều sai phạm, số tiền bồi thường chi trả cho các hộ dân được áp dụng nhiều mức giá khác nhau, bà và các hộ dân xã VP đã có ý kiến với UBND xã và chính quyền thôn nhưng UBND xã và cán bộ thôn vận động ông bà phải nhận số tiền bồi thường.

Khoảng đầu năm 2019, còn lại khoảng 40 hộ gia đình không đồng ý giao đất và nhận tiền bồi thường theo phương án bồi thường hỗ trợ giải phóng mặt bằng của UBND thành phố thì các hộ này được bồi thường tiền thu hồi ruộng cao nhất là 175 triệu đồng/sào. Do thấy việc bồi thường thu hồi ruộng của mọi người khác nhau, những người chấp hành giao ruộng sớm thì được bồi thường thấp, những người không chấp hành thì được bồi thường cao. Chính vì vậy, bà và 200 hộ gia đình cùng làm đơn khiếu nại gửi UBND thành phố TB đề nghị xem xét lại Quyết định số 13577/QĐ-UBND ngày 01/12/2016 của UBND thành phố TB về phương án bồi thường giải phóng mặt bằng. Ngày 17/9/2020, Chủ tịch UBND thành phố TB đã có Quyết định số 3272/QĐ-UBND giải quyết không chấp nhận khiếu nại của bà và các hộ gia đình đối với Quyết định số 13577/QĐ-UBND ngày 01/12/2016 của UBND thành phố TB về phương án bồi thường giải phóng mặt bằng.

Không nhất trí với Quyết định số 3272/QĐ-UBND ngày 17/9/2020 của Chủ tịch UBND thành phố TB, người đại diện của bà và các hộ gia đình tiếp tục khiếu nại lên Chủ tịch UBND tỉnh TB. Ngày 05/02/2021, Chủ tịch UBND tỉnh TB ra Quyết định số 520/QĐ-UBND giữ nguyên quyết định số 3272/QĐ-UBND ngày 17/9/2020 của Chủ tịch UBND thành phố TB.

Việc Chủ tịch UBND thành phố TB ban hành Quyết định số 3272/QĐ- UBND và Chủ tịch UBND tỉnh TB ban hành Quyết định số 520/QĐ-UBND ảnh hưởng đến quyền lợi của bà và các hộ gia đình tại thôn PK và thôn PT, vị trí ruộng như nhau, gia đình bà chấp hành theo quy định của nhà nước thì được bồi thường số tiền thấp còn các hộ gia đình không chấp hành thì lại được bồi thường số tiền cao, các hộ gia đình nhận tiền sau không đúng với số tiền bồi thường trong phương án hỗ trợ giải phóng mặt bằng do UBND thành phố quyết định.

Bà khởi kiện đề nghị Tòa án hủy các quyết định sau:

- Quyết định số 13577/QĐ-UBND ngày 01/12/2016 của UBND thành phố TB về phương án bồi thường giải phóng mặt bằng (sau đây viết tắt là Quyết định số 13577/QĐ-UBND) - Quyết định số 3272/QĐ-UBND ngày 17/9/2020 của Chủ tịch UBND thành phố TB (sau đây viết tắt là Quyết định số 3272/QĐ-UBND).

- Quyết định số 520/QĐ-UBND ngày 05/02/2021 của Chủ tịch UBND tỉnh TB (sau đây viết tắt là Quyết định số 520/QĐ-UBND).

Người bị kiện là UBND thành phố TB và Chủ tịch UBND thành phố TB (do người đại diện) trình bày:

- Về căn cứ, thẩm quyền thu hồi đất, phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng:

Dự án Khu dân cư mới xã VP, thành phố TB được UBND tỉnh TB phê duyệt quy hoạch chi tiết tỷ lệ 1/500 tại Quyết định số 1717/QĐ-UBND ngày 30/7/2012, được Thủ tướng Chính phủ cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trồng lúa sang loại đất khác để thực hiện dự án tại Văn bản số 1489/TTg-KTN ngày 23/9/2013; UBND tỉnh TB có Văn bản số 2124/UBND-MCLT ngày 30/6/2015 chấp thuận chủ đầu tư dự án; HĐND tỉnh TB có Nghị quyết số 30/2015/NQ-HĐND ngày 09/12/2015 phê duyệt danh mục dự án cần thu hồi đất để phát triển kinh tế, xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng. Như vậy, dự án khu dân cư mới xã VP thuộc trường hợp nhà nước thu hồi đất theo quy định tại Điều 62 Luật Đất đai năm 2013.

Căn cứ Điều 62, Điều 66, Điều 69 Luật Đất đai năm 2013; Quyết định số 1793/QĐ-UBND ngày 06/8/2014 của UBND tỉnh TB về việc ủy quyền thu hồi đất, phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư, UBND thành phố TB ban hành Quyết định thu hồi đất của các hộ gia đình, cá nhân và Quyết định số 13577/QĐ-UBND ngày 01/12/2016 phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng (trong đó có hộ bà Đoàn Thị T) để thực hiện dự án là đúng căn cứ, đúng thẩm quyền quy định.

- Về trình tự, thủ tục và chế độ chính sách bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất:

Ngày 05/8/2016, UBND thành phố TB đã ban hành Kế hoạch số 105/KH- UBND về việc thu hồi đất và các thông báo thu hồi đất, gửi đến người có đất bị thu hồi thuộc dự án theo quy định.

Ngày 31/8/2016 và ngày 11/9/2016 Trung tâm Phát triển Quỹ đất thành phố phối hợp với UBND xã VP, cơ sở thôn, các đơn vị có liên quan và đại diện các hộ dân có đất bị thu hồi họp để triển khai công tác giải phóng mặt bằng dự án; trong đó đã triển khai kế hoạch, thông báo thu hồi đất, các quy định của pháp luật về giải phóng mặt bằng.

Sau khi thống kê diện tích, chủ sử dụng đất, tỷ lệ đất nông nghiệp thu hồi, nhân khẩu nông nghiệp của các hộ gia đình, cá nhân thuộc dự án; kiểm đếm tài sản, cây trồng trên đất; Trung tâm Phát triển quỹ đất thành phố TB đã lập phương án bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng phối hợp với UBND xã VP, cơ sở các thôn tổ chức niêm yết công khai dự thảo phương án bồi thường, hỗ trợ theo quy định.

Xét đề nghị của các phòng, ban, đơn vị liên quan; UBND thành phố TB đã ban hành các quyết định thu hồi đất của các hộ gia đình, cá nhân thuộc dự án và ban hành các quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng theo quy định, trong đó có Quyết định số 13577/QĐ-UBND ngày 01/12/2016 phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng liên quan đến hộ bà T.

- Về lập phương án bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng: Sau khi ban hành Kế hoạch, Thông báo thu hồi đất, UBND thành phố TB chỉ đạo Trung tâm Phát triển quỹ đất, các phòng, ban, đơn vị liên quan thành phố và UBND xã VP lập phương án bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng đối với các hộ gia đình, cá nhân có đất bị thu hồi thuộc dự án đúng theo chế độ chính sách, đơn giá bồi thường, hỗ trợ và thống nhất chung cho tất cả các hộ dân trong cùng dự án theo quy định tại Quyết định số 3077/QĐ-UBND ngày 19/12/2014, Quyết định số 215/QĐ-UBND ngày 21/01/2016, Quyết định số 08/2014/QĐ-UBND ngày 30/6/2014 và Công văn số 346/UBND-NNTNMT ngày 07/5/2015 của UBND tỉnh TB.

Xét đề nghị của Trung tâm Phát triển quỹ đất, Phòng Tài nguyên và Môi trường thành phố TB, UBND thành phố đã phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng cho các hộ dân tại Quyết định số 13577/QĐ-UBND ngày 01/12/2016 (trong đó có hộ bà T) là đảm bảo đúng quy định của Nhà nước và của tỉnh TB theo thống nhất một chế độ chính sách đối với tất cả các hộ dân trong cùng dự án. Như vậy, việc bà T cho rằng phương án bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng của dự án khu dân cư mới xã VP không công bằng là không có cơ sở.

- Về việc giải quyết khiếu nại (lần đầu) của Chủ tịch UBND thành phố TB:

Theo đơn khiếu nại đề ngày 28/5/2020 và nội dung làm việc ngày 11/6/2020 của Thanh tra thành phố TB, bà Hoàng Thị S cùng 04 công dân đại diện cho một số hộ dân thôn PK, thôn PT, xã VP (trong đó có hộ bà T) khiếu nại Quyết định số 13577/QĐ-UBND ngày 01/12/2016, Quyết định số 1185/QĐ- UBND ngày 04/5/2019, Quyết định số 1649/QĐ-UBND ngày 17/5/2019, Quyết định số 2232/QĐ-UBND ngày 03/7/2019 của UBND thành phố TB về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng dự án xây dựng khu dân cư mới xã VP, thành phố TB. Ngày 03/7/2020, UBND thành phố TB có Thông báo số 590/TB-UBND thụ lý giải quyết khiếu nại. Ngày 20/7/2020, Chủ tịch UBND thành phố TB ban hành Quyết định số 2411/QĐ-UBND về việc xác minh nội dung khiếu nại (lần đầu) của bà Hoàng Thị S cùng một số công dân thôn PK và thôn PT, xã VP. Ngày 09/7/2020, Chủ tịch UBND thành phố TB có Quyết định số 2323/QĐ-UBND ủy quyền cho Phó Chủ tịch UBND thành phố TB giải quyết khiếu nại.

Xét đề nghị của Đoàn xác minh tại Báo cáo số 03/BC-ĐXM về kết quả xác minh nội dung khiếu nại của bà Hoàng Thị S và một số công dân thôn PK, thôn PT, xã VP. Ngày 17/9/2020, Phó Chủ tịch UBND thành phố TB (theo Quyết định ủy quyền số 2323/QĐ-UBND ngày 09/7/2020) đã ký Quyết định số 3272/QĐ-UBND về việc giải quyết khiếu nại (lần đầu); trong đó kết luận giữ nguyên nội dung Quyết định số 13577/QĐ-UBND ngày 01/12/2016, Quyết định số 1185/QĐ-UBND ngày 04/5/2019, Quyết định số 1649/QĐ-UBND ngày 17/5/2019 và Quyết định số 2232/QĐ-UBND ngày 03/7/2019 của UBND thành phố TB về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng dự án xây dựng khu dân cư mới xã VP, thành phố TB.

Việc giải quyết khiếu nại của Chủ tịch UBND thành phố TB là đảm bảo quy định của Luật Khiếu nại; Nghị định số 75/2012/NĐ-CP ngày 03/10/2012 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Khiếu nại; Thông tư số 07/2013/TT-TTCP ngày 31/10/2013 của Thanh tra Chính phủ quy định quy trình giải quyết khiếu nại hành chính; Thông tư số 02/2016/TT-TTCP ngày 20/10/2016 của Thanh tra Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 07/2013/TT-TTCP ngày 31/10/2013 của Thanh tra Chính phủ quy định quy trình giải quyết khiếu nại hành chính.

Chủ tịch UBND thành phố TB và UBND thành phố TB khẳng định toàn bộ quá trình thu hồi đất, phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng và giải quyết khiếu nại liên quan đến thu hồi đất tại dự án Khu dân cư mới xã VP, thành phố TB được thực hiện đúng theo quy định của pháp luật; khiếu kiện của bà T là không có căn cứ, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Người bị kiện là Chủ tịch UBND tỉnh TB (do người đại diện) trình bày:

- Về thẩm quyền:

Chủ tịch UBND tỉnh TB thụ lý giải quyết khiếu nại (lần 2) của các công dân đối với Quyết định số 3272/QĐ-UBND ngày 17/9/2020 của Chủ tịch UBND thành phố TB là đúng quy định tại khoản 2 Điều 21, khoản 1 Điều 40 Luật Khiếu nại năm 2011 và khoản 7 Điều 22 Luật Tổ chức Chính quyền địa phương năm 2015.

- Về trình tự, thủ tục:

Sau khi nhận đơn khiếu nại của các công dân, Chủ tịch UBND tỉnh TB thực hiện thụ lý, thông báo cho các công dân và giao Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh TB xác minh nội dung khiếu nại; tổ chức đối thoại với các công dân theo quy định trước khi ban hành Quyết định giải quyết khiếu nại lần hai.

Trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại (lần hai) nêu trên thực hiện theo đúng quy định của Luật Khiếu nại, Nghị định số 75/2012/NĐ-CP ngày 03/10/2012 của Chính phủ quy định chi tiết và thi hành một số điều của Luật Khiếu nại; Nghị định số 124/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Khiếu nại.

- Về nội dung giải quyết khiếu nại:

Căn cứ Báo cáo số 322/BC-STNMT ngày 30/12/2021 của Sở Tài nguyên và Môi trường về kết quả xác minh nội dung khiếu nại của bà Hoàng Thị S cùng 04 công dân đại diện cho một số hộ dân thôn PK, thôn PT, xã VP, thành phố TB đối với Quyết định số 3272/QĐ-UBND ngày 17/9/2020 của Chủ tịch UBND thành phố TB về việc giải quyết khiếu nại (lần đầu), Chủ tịch UBND tỉnh TB thấy việc giải quyết khiếu nại của các công dân xã VP, thành phố TB, tỉnh TB của Chủ tịch UBND thành phố TB bảo đảm đúng trình tự, thẩm quyền, đảm bảo quyền lợi của hộ bà T và các hộ gia đình có đất bị thu hồi theo quy định của pháp luật nên đã ban hành Quyết định số 520/QĐ-UBND ngày 05/02/2021 giữ nguyên Quyết định số 3272/QĐ-UBND của Chủ tịch UBND thành phố TB.

Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh đề nghị Tòa án bác yêu cầu khởi kiện của bà T.

Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 100/2022/HC-ST ngày 06 tháng 9 năm 2022, Tòa án nhân dân tỉnh TB quyết định:

Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Đoàn Thị T, gồm các yêu cầu sau:

- Yêu cầu hủy Quyết định số 13577/QĐ-UBND ngày 01/12/2016 của UBND thành phố TB về việc phê duyệt Phương án bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng dự án xây dựng khu dân cư mới xã VP, thành phố TB;

- Yêu cầu hủy Quyết định số 3272/QĐ-UBND ngày 17/9/2020 của Chủ tịch UBND thành phố TB về việc giải quyết khiếu nại lần đầu;

- Yêu cầu hủy Quyết định số 520/QĐ-UBND ngày 05/02/2021 của Chủ tịch UBND tỉnh TB về việc giải quyết khiếu nại lần hai.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 10/10/2022, Tòa án cấp sơ thẩm nhận đơn của bà Đoàn Thị T kháng cáo toàn bộ bản án hành chính sơ thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm, người khởi kiện không rút đơn khởi kiện; giữ nguyên yêu cầu kháng cáo đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện.

Người bị kiện là UBND tỉnh TB, Chủ tịch UBND thành phố TB, UBND thành phố TB vắng mặt nhưng có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt và không chấp nhận kháng cáo của người khởi kiện.

Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho người bị kiện đề nghị Tòa án bác kháng cáo và bác yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội trình bày quan điểm về việc giải quyết vụ án: Về tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án tại cấp phúc thẩm, Thẩm phán, Thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng đã tuân thủ đúng các quy định của pháp luật tố tụng hành chính. Về nội dung: Kháng cáo của bà Đoàn Thị T là không có cơ sở, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 241 Luật Tố tụng hành chính xử bác kháng cáo của bà T và giữ nguyên quyết định của bản án hành chính sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án; căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ đã được thẩm tra công khai và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên, các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Ngày 06/9/2022, Tòa án nhân dân tỉnh TB mở phiên tòa sơ thẩm nhưng bà Đoàn Thị T vắng mặt. Ngày 28/9/2022, Tòa án nhân dân tỉnh TB giao Bản án hành chính sơ thẩm số 100/2022/HC-ST ngày 06/9/2022 cho bà T. Ngày 10/10/2022, Tòa án cấp sơ thẩm nhận đơn của bà Đoàn Thị T kháng cáo toàn bộ bản án hành chính sơ thẩm nêu trên, kèm theo đơn đề nghị Tòa án miễn nộp án phí với lý do bà T là người cao tuổi. Đơn kháng cáo của bà T gửi trong thời hạn quy định tại Điều 206 Luật Tố tụng hành chính nên được thụ lý vụ án để xem xét theo thủ tục phúc thẩm.

[1.2] Tại phiên tòa phúc thẩm, mặc dù đã được triệu tập hợp lệ lần 02 nhưng các đương sự không kháng cáo gồm: Người bị kiện vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt. Do đó, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự nêu trên theo quy định tại khoản 2, khoản 4 Điều 225 Luật Tố tụng hành chính.

[1.3] Ngày 07/7/2021, bà Đoàn Thị T khởi kiện vụ án hành chính yêu cầu hủy Quyết định số 13577/QĐ-UBND ngày 01/12/2016 của UBND thành phố TB về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng dự án xây dựng khu dân cư mới xã VP, thành phố TB; Quyết định số 3272/QĐ-UBND ngày 17/9/2020 của Chủ tịch UBND thành phố TB về việc giải quyết khiếu nại (lần đầu); Quyết định số 520/QĐ-UBND ngày 05/02/2021 của Chủ tịch UBND tỉnh TB về việc giải quyết khiếu nại (lần hai). Xét thấy, đối tượng khởi kiện là quyết định hành chính do cơ quan hành chính Nhà nước có thẩm quyền ban hành trong hoạt động quản lý hành chính về lĩnh vực đất đai. Do đó, Tòa án nhân dân tỉnh TB thụ lý, giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền và trong thời hiệu theo quy định tại khoản 1, 2 Điều 3, khoản 1 Điều 30, khoản 4 Điều 32, điểm a khoản 2 Điều 116 Luật Tố tụng hành chính.

[2] Xét tính hợp pháp của các quyết định hành chính bị khởi kiện:

[2.1] Về trình tự, thủ tục, thẩm quyền ban hành:

Dự án khu dân cư xã VP, thành phố TB được UBND tỉnh TB phê duyệt quy hoạch chi tiết tỷ lệ 1/500 tại Quyết định số 1717/QĐ-UBND ngày 30/7/2012; được Thủ tướng Chính phủ cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trồng lúa sang loại đất khác để thực hiện dự án tại Văn bản số 1489/TTg-KTN ngày 23/9/2013; UBND tỉnh TB có Văn bản số 2124/UBND-MCLT ngày 30/6/2015 chấp thuận chủ đầu tư dự án; Hội đồng nhân dân tỉnh TB ban hành Nghị quyết số 30/2015/NQ-HĐND ngày 09/12/2015 phê duyệt danh mục dự án cần thu hồi đất để phát triển kinh tế, xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng.

UBND tỉnh TB ban hành Kế hoạch số 105/KH-UBND ngày 05/8/2016 về việc thu hồi đất kèm theo thông báo thu hồi, gửi đến người có đất bị thu hồi thuộc dự án theo quy định, có niêm yết công khai. Sau cuộc họp với các hộ dân có đất bị thu hồi, UBND thành phố đã xem xét đề nghị của các phòng ban, đơn vị liên quan và ra Quyết định số 13577/QĐ-UBND ngày 01/12/2016 phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng xây dựng khu dân cư mới xã VP, thành phố TB (trong đó có hộ bà Đoàn Thị T). Bà T cho rằng việc bồi thường của Nhà nước không công bằng về giá nên đã ủy quyền cho bà Hoàng Thị S cùng 04 công dân khác làm đơn khiếu nại đến Chủ tịch UBND thành phố TB. Chủ tịch UBND thành phố TB ban hành Quyết định số 3272/QĐ-UBND giải quyết khiếu nại lần đầu, giữ nguyên Quyết định số 13577/QĐ-UBND ngày 01/12/2016. Không đồng ý với quyết định nêu trên, ngày 21/10/2020 bà Hoàng Thị S cùng 04 công dân khác tiếp tục khiếu nại đối với Quyết định số 3272/QĐ- UBND. Ngày 05/02/2021, Chủ tịch UBND tỉnh TB ban hành Quyết định số 520/QĐ-UBND giải quyết khiếu nại lần hai, không chấp nhận đơn khiếu nại của người đại diện cho bà T, giữ nguyên kết quả giải quyết khiếu nại tại Quyết định 3272/QĐ-UBND của Chủ tịch UBND thành phố TB.

Như vậy, việc ban hành Quyết định số 13577/QĐ-UBND ngày 01/12/2016 của UBND thành phố TB là đúng thẩm quyền được quy định tại Điều 62, Điều 63 và khoản 6 Điều 66 Luật Đất đai năm 2013. Chủ tịch UBND thành phố TB ban hành Quyết định số 3272/QĐ-UBND giải quyết khiếu nại lần đầu và Chủ tịch UBND tỉnh TB ban hành Quyết định số 520/QĐ-UBND giải quyết khiếu nại lần hai đối với khiếu nại của người đại diện ủy quyền của bà T và các công dân khác là đúng trình tự, thẩm quyền được quy định tại Điều 204 Luật Đất đai năm 2013, Điều 22, Điều 29 Luật Tổ chức chính quyền địa phương, Điều 18, Điều 27, Điều 29, Điều 30, Điều 31, Điều 36, Điều 38, Điều 39, Điều 40 Luật Khiếu nại năm 2011 và Nghị định số 75/2012/NĐ-CP ngày 03/10/2012 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Khiếu nại; Thông tư số 07/2013/TT-TTCP ngày 31/10/2013 của Thanh tra Chính phủ quy định quy trình giải quyết khiếu nại hành chính, Thông tư số 02/2016/TT-TTCP ngày 20/10/2016 của Thanh tra Chính phủ sửa đổi Thông tư số 07/2013/TT-TTCP ngày 31/10/2013. [2.2] Về tính hợp pháp về nội dung các Quyết định hành chính:

- Xét Quyết định số 13577/QĐ-UBND ngày 01/12/2016 của UBND thành phố TB.

Về cơ sở pháp lý: Sau khi tổng hợp, hoàn thiện phương án trình các phòng, ban đơn vị liên quan của UBND thành phố thẩm định, ngày 01/12/2016 UBND thành phố TB đã ban hành Quyết định số 13511/QĐ-UBND về việc thu hồi đất. Hộ bà Đoàn Thị T bị thu hồi đất tại thửa đất số 17, tờ bản đồ số 12, diện tích 458m2; thửa số 67, tờ bản đồ số 12, diện tích 239m2 và thửa số 248, tờ bản đồ số 12, diện tích 56m2, do đất của gia đình bà nằm trong diện tích bị thu hồi trong dự án xây dựng khu dân cư mới xã VP với tổng số tiền là 151.547.400 đồng. Hộ gia đình bà T không khiếu nại đối với quyết định thu hồi đất.

Về mức giá bồi thường về đất, tài sản trên đất và các khoản hỗ trợ tại Quyết định số 13577/QĐ-UBND thì thấy mức bồi thường về đất theo đơn giá cây trồng hàng năm là 42.000đồng/m2, hệ số 1,0; tiền hỗ trợ đào tạo chuyển nghề và tìm kiếm việc làm là 42.000đồng/m2 x hệ số 1,5; mức hỗ trợ ổn định đời sống sản xuất được áp dụng là nhân khẩu x 30 kg x số tháng x 11.500 đồng, các khoản hỗ trợ khác theo Công văn số 1346/UBND-NNTNMT ngày 07/5/2015 của UBND tỉnh TB và bồi thường tài sản xây dựng, cây cối hoa màu trên đất…là phù hợp với quy định tại Điều 77, điểm a, b khoản 2 Điều 83, Điều 84, Điều 90 Luật Đất đai năm 2013 và Quy định về bảng giá các loại đất trên địa bàn tỉnh TB ban hành kèm theo Quyết định số 3077/QĐ-UBND ngày 19/12/2014 của UBND tỉnh TB; Quyết định số 215/QĐ-UBND ngày 21/01/2016 của UBND tỉnh TB về quy định hệ số điều chỉnh giá đất để tính tiền bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh TB năm 2016; Điều 14, Điều 15 Quyết định số 08/QĐ-UBND ngày 30/6/2014 của UBND tỉnh TB ban hành quy định một số chính sách bồi thường hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh TB; khoản 7 Điều 19, khoản 1 Điều 20 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ.

Sau khi phương án bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng được UBND thành phố TB phê duyệt, Trung tâm Phát triển quỹ đất thành phố đã thực hiện việc niêm yết công khai Quyết định phê duyệt phương án, công khai mức bồi thường, hỗ trợ; đồng thời thông báo Quyết định thu hồi đất, Quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ tới các hộ gia đình, cá nhân (có gia đình bà T). Sau đó, Trung tâm Phát triển quỹ đất thành phố đã phối hợp với UBND xã VP tổ chức thực hiện việc chi trả tiền phương án bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng cho các hộ gia đình, cá nhân theo đúng phương án đã được UBND thành phố phê duyệt. Như vậy, UBND thành phố TB đã thực hiện đúng trình tự thủ tục quy định tại khoản 3 Điều 69 Luật Đất đai năm 2013.

Người khởi kiện còn cho rằng việc bồi thường về đất giữa các hộ gia đình có đất thu hồi trong cùng dự án là khác nhau, không đảm bảo công bằng nhưng người khởi kiện không xuất trình được tài liệu chứng cứ chứng minh. Các tài liệu người bị kiện giao nộp thể hiện các hộ gia đình, cá nhân, tổ chức mà Nhà nước có Quyết định thu hồi đất để thực hiện dự án Khu dân cư mới xã VP, thành phố TB đều được áp dụng chung cơ chế, chính sách bồi thường, hỗ trợ; không có tài liệu nào thể hiện việc UBND thành phố TB áp giá bồi thường cao hơn cho một số hộ gia đình khác như người khởi kiện trình bày. Việc bồi thường, hỗ trợ đảm bảo nguyên tắc công bằng theo quy định tại khoản 3 Điều 74 Luật Đất đai năm 2013. Do đó, Tòa án cấp sơ không chấp nhận yêu cầu của bà T về hủy Quyết định số 13577/QĐ-UBND là có căn cứ.

- Xét Quyết định số 3272/QĐ-UBND ngày 17/9/2020 của Chủ tịch UBND thành phố TB, tỉnh TB về việc giải quyết khiếu nại (lần đầu); Quyết định số 520/QĐ- UBND ngày 05/02/2021 của Chủ tịch UBND tỉnh TB về việc giải quyết khiếu nại (lần hai):

Như đã phân tích ở đoạn [2.1] và [2.2] Quyết định số 13577/QĐ-UBND được ban hành đúng về trình tự, thủ tục, và nội dung. Bà T cho rằng đơn giá bồi thường là không công bằng giữa các hộ dân nên đã ủy quyền cho bà Hoàng Thị S và 04 công dân khác làm đơn khiếu nại và được Chủ tịch UBND thành phố TB giải quyết khiếu nại bằng việc ban hành Quyết định số 3272/QĐ-UBND về việc giải quyết khiếu nại (lần đầu). Việc ban hành quyết định này là đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại. Tuy có vi phạm về thời hạn giải quyết quy định tại Điều 28 Luật Khiếu nại nhưng không làm ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của người khởi kiện nên không phải là căn cứ để hủy Quyết định số 3272/QĐ-UBND của Chủ tịch UBND thành phố TB.

Vì Quyết định số 3272/QĐ-UBND là quyết định giải quyết lần đầu đối với Quyết định số 13577/QĐ-UBND ngày 01/12/2016 có căn cứ như đã phân tích nêu trên nên Quyết định số 520/QĐ-UBND ngày 05/02/2021 của Chủ tịch UBND tỉnh TB giữ nguyên nội dung giải quyết khiếu nại lần đầu là đúng quy định của pháp luật.

[3] Với các căn cứ nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm quyết định bác đơn khởi kiện của bà Đoàn Thị T là đúng quy định. Xét nội dung kháng cáo của bà T vẫn như nội dung khởi kiện tại cấp sơ thẩm và tại phiên tòa phúc thẩm không phát sinh tình tiết mới nên không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của bà T.

[4] Về án phí: Bà Đoàn Thị T là người cao tuổi có đơn xin miễn án phí, căn cứ Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội miễn án phí hành chính phúc thẩm cho bà T.

[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 241 Luật Tố tụng hành chính, Điều 12, khoản 1 Điều 34 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Bác kháng cáo của bà Đoàn Thị T. Giữ nguyên quyết định của Bản án hành chính sơ thẩm số 100/2022/HC-ST ngày 06 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh TB.

2. Về án phí: Miễn án phí hành chính phúc thẩm cho bà Đoàn Thị T.

3. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

172
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý Nhà nước đất đai và quyết định giải quyết khiếu nại số 334/2023/HC-PT

Số hiệu:334/2023/HC-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hành chính
Ngày ban hành:15/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về