Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai số 94/2021/HC-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 94/2021/HC-PT NGÀY 15/03/2021 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI

Ngày 15 tháng 3 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số 779/2020/TLPT-HC ngày 21 tháng 12 năm 2020 về việc: “Khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai”.

Do Bản án hành chính sơ thẩm số 51/2020/HC-ST ngày 04 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 216/2021/QĐ-PT ngày 22 tháng 02 năm 2021 giữa các đương sự:

- Người khởi kiện: Bà Trần Thị H, sinh năm 1951;

Địa chỉ: Số 3Ô1/24 khu phố A, thị trấn B; huyện C, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (có mặt).

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Văn D, sinh năm 1940; địa chỉ: 3Ô2/25 khu phố Đ, thị trấn B, huyện C, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (có mặt).

- Người bị kiện:

1. Ủy ban nhân dân huyện C.

2. Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện C.

Địa chỉ: Khu trung tâm hành chính huyện C, thị trấn C, huyện C, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

Người đại diện hợp pháp: Ông Lê Văn E – Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện C (vắng mặt, có văn bản đề nghị xét xử vắng mặt).

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp: Ông Lê Minh F – Phó trưởng phòng Tài nguyên và Môi trường (có mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Nguyễn Văn G, sinh năm 1948; địa chỉ: Số 3Ô1/24 khu phố A, thị trấn B, huyện C, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (có mặt).

2. Ủy ban nhân dân thị trấn B; địa chỉ: Thị trấn B, huyện C, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (vắng mặt có đơn xét xử vắng mặt).

- Người làm chứng:

1. Ông Nguyễn Văn D, sinh năm 1940; địa chỉ: 3Ô2/25 khu phố Đ, thị trấn B, huyện C, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (có mặt).

2. Bà Lê Thị J, sinh năm 1951; địa chỉ: 10 Ô3 khu phố I, thị trấn B, huyện C, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (có mặt).

3. Ông Trần Văn K, sinh năm 1938; địa chỉ: 20 Ô2/6 khu phố L, thị trấn B, huyện C, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (có mặt).

4. Ông Phùng Văn M, sinh năm 1965; địa chỉ: 20 Ô2/6 khu phố L, thị trấn B, huyện C, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (có mặt).

Người kháng cáo: Người khởi kiện Bà Trần Thị H

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, người khởi kiện và người đại diện hợp pháp trình bày:

Năm 1976, Bà Trần Thị H và cha chồng là ông Nguyễn Văn N khai phá diện tích đất 2.925m2 tại khu vực O nay là khu phố P, thị trấn B, huyện C sử dụng để trồng mì, ổi, cây anh đào làm ranh. Chồng bà là Ông Nguyễn Văn G khi đó thường xuyên đi biển, thỉnh thoảng mới đến đất phụ bà trồng cây. Khi khai phá gia đình Bà H có làm đơn xin khai phá gửi trưởng ban ấp - ông Q xác nhận, hiện nay giấy xác nhận này đã bị thất lạc, không tìm thấy, ngoài giấy tờ xin khai phá này Bà H không có giấy tờ nào khác về việc khai phá năm 1976. Khi đó có Ông Trần Văn K, ông Phan Phùng M, Bà Lê Thị J, Ông Nguyễn Văn D là những người biết được quá trình sử dụng đất của gia đình Bà H.

Quá trình sử dụng đất Bà H không kê khai đăng ký, không đóng thuế. Vì năm 1982, 1983 gia đình Bà H được ông R - cán bộ địa chính xã thông báo đất quy hoạch và yêu cầu gia đình Bà H ngừng canh tác. Để chấp hành quy định từ năm 1982, 1983 cho đến nay gia đình Bà H không canh tác. Ông R yêu cầu Bà H làm đơn xin đất khác nộp tại UBND xã, Bà H làm đơn xin đất nhưng không được cấp đất. Hiện nay phần đất này bỏ trống, không có công trình trên đất, nhà nước thu hồi đất không có quyết định thu hồi và bồi thường. Ông R - Cán bộ địa chính xã và Chủ tịch UBND xã nói cho Bà H biết là gia đình Bà H được nhận tiền bồi thường khi nhà nước thu hồi nhưng đến nay không được nhận.

Ngày 18/02/2019 Bà H gửi đơn đến UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu yêu cầu trả lại diện tích 2.925m2 tại khu phố P.

Ngày 06/6/2019 UBND huyện C ban hành Văn bản số 3940/UBND- PTNMT về việc trả lời Bà H với nội dung yêu cầu của Bà H là không có cơ sở xem xét.

Không đồng ý với Văn bản số 3940, ngày 13/6/2019 Bà H khiếu nại.

Ngày 01/11/2019 Chủ tịch UBND huyện C ban hanh Quyết định giải quyết khiếu nại số 3234/QĐ-UBND có nội dung bác đơn khiếu nại của Bà H.

Không đồng ý, ngày 28/11/2019 Bà H khởi kiện yêu cầu tòa án giải quyết:

- Tuyên hủy Văn bản số 3940/UBND-PTNMT ngày 06/6/2019 của Ủy ban nhân dân huyện C.

- Tuyên hủy Quyết định số 3234/QĐ-UBND ngày 01/11/2019 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện C.

- Buộc Ủy ban nhân dân huyện C cấp lại đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích 2.925 m2 tại khu phố P, thị trấn B, huyện C cho hộ Bà Trần Thị H.

Quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, người bị kiện UBND huyện C có văn bản ý kiến trình bày:

Ngày 07/3/2019, UBND tỉnh có Phiếu chuyển số 11/PC-UBND về việc chuyển đơn của công dân. Nội dung Phiếu chuyển nêu: “UBND tỉnh nhận đơn của Bà Trần Thị H, ngụ tại 3ô1/24, khu phố A, thị trấn B, huyện C, có nội dung: yêu cầu giải quyết trả lại cho gia đình Bà phần diện tích 2.925 m2, đất tọa lạc tại khu phố P, thị trấn B”.

Qua kiểm tra hồ sơ và xác minh một số hộ dân sinh sống tại khu vực đất Bà H kiến nghị trả lại cho Bà H, UBND huyện ban hành văn bản số 3940/UBND- PTNMT ngày 06/6/2019 về việc trả lời đơn của Bà Trần Thị H, ngụ tại thị trấn B. Tại nội dung văn bản nêu: “Ngày 08/01/2019, Phòng Tài nguyên và Môi trường phối hợp UBND thị trấn B tiến hành làm việc với Bà Trần Thị H. Bà H chỉ ranh đất ngoài thực tế đối với diện tích 2.925 m2. Vị trí đất này hiện nay là khu dân cư 21 ha, thuộc thửa đất đo bao số 44, tờ bản đồ số 14, thị trấn B (thể hiện tại bản đồ địa chính đo đạc năm 1998).

Qua xác minh một số hộ dân sinh sống tại khu vực đất Bà H kiến nghị trả lại cho Bà thì không có khai khẩn đất tại khu vực này. Đồng thời, tại Báo cáo số 59/BC-UBND ngày 26/03/2019 của UBND thị trấn B khẳng định Bà Trần Thị H không có quá trình canh tác và sử dụng đối với phần diện tích 2.925 m2.

Từ kết quả nêu trên, UBND huyện nhận thấy việc Bà Trần Thị H yêu cầu giải quyết trả lại cho gia đình Bà phần diện tích 2.925 m2, đất tọa lạc tại khu phố P, thị trấn B là không có sơ sở xem xét”.

Ngày 13/6/2019, Bà Trần Thị H khiếu nại Văn bản số 3940/UBND- PTNMT ngày 06/6/2019 của UBND huyện C về việc trả lời đơn của Bà Trần Thị H. Sau khi nhận được đơn khiếu nại, UBND huyện đã chỉ đạo các cơ quan chuyên môn tiến hành thẩm tra, xác minh. Kết quả:

Kết quả kiểm tra hồ sơ địa chính Căn cứ bản đồ địa chính thị trấn B đo đạc năm 1997 và số hóa năm 2006 thì khu vực đất Bà H đề nghị trả lại là nằm phía sau trụ sở khu phố P, thuộc thửa đất đo bao số 44, tờ bản đồ số 14, loại đất là chưa sử dụng, UBND xã đăng ký.

Hiện nay, vị trí thửa đất trên nằm trong khu quy hoạch dân cư 21 ha, UBND huyện đã cắm mốc phân lô dân cư và làm đường phân lô.

Kết quả xác minh nguồn gốc, quá trình sử dụng đất Trước năm 1992, khu vực đất này còn hoang hóa. Khoảng năm 1993 - 1996, một số hộ dân vào khu vực này khai phá, lấn chiếm đất để làm rẫy, trồng cây, trong đó có hộ Bà Trần Thị H. Khi đó, UBND xã B (nay là UBND thị trấn B) đã ban hành văn bản ngăn cấm việc khai phá, lấn chiếm trái phép đất Nhà nước quản lý, tiến hành kiểm tra tháo dỡ chòi của các hộ dân lấn chiếm.

Năm 1997, khi Nhà nước tiến hành đo đạc giải thửa bản đồ địa chính xã B, Bà H cũng không đăng ký với địa phương, phần diện tích đất trên được đo bao và thể hiện tại thửa đất số 44, tờ bản đồ số 14, loại đất là chưa sử dụng, UBND xã đăng ký.

Theo kết quả xác minh, tại thời điểm năm 1999, chỉ thấy Bà H ra vào khu vực đất này, trên đất chỉ có 01 giếng đào, không trồng trọt cây cối.

Năm 2002, một số hộ dân tiếp tục vào khu vực này khai phá lấn chiếm đất trái phép, UBND xã đã ngăn chặn, yêu cầu không được lấn chiếm, khai phá, trồng cây.

Theo trình bày của Bà Trần Thị H, khi UBND xã B ngăn chặn, yêu cầu không được trồng cây do khu vực này chuẩn bị quy hoạch thì Bà H đã ngưng canh tác tại phần đất trên, giao lại cho Nhà nước quản lý. Theo hướng dẫn của Cán bộ địa chính xã thời điểm đó, Bà H đã làm đơn xin giao đất ở gửi đến UBND xã B để được xem xét giao đất ở nơi khác. Do bà nghe nói bà có tên trong danh sách được cấp đất, vì vậy khi Nhà nước thực hiện các dự án tại khu vực này bà không quan tâm và không có ý kiến gì về phần đất mà trước đây bà canh tác vì bà cho rằng bà đã giao trả lại và chờ Nhà nước giao lại đất ở mới.

Năm 2007, Nhà nước thu hồi, sử dụng thực hiện dự án Khu dân cư 21 ha, Ban bồi thường giải phóng mặt bằng huyện (nay là Trung tâm Phát triển quỹ đất huyện) phối hợp UBND thị trấn B tiến hành thống kê hoa màu, vật kiến trúc trên đất của các hộ dân có nhà, vật kiến trúc, hoa màu trên đất nằm trong khu quy hoạch dân cư 21 ha L để lập phương án hỗ trợ kinh phí di dời giải tỏa. Qua kiểm tra hồ sơ bồi thường, hỗ trợ không có tên của Bà Trần Thị H. Điều này trùng khớp với những nội dung Bà H trình bày là bà đã ngưng, không canh tác từ năm 2002, phần đất trên do Nhà nước quản lý.

Qua các lần làm việc, Bà H không cung cấp được hồ sơ chứng minh thời điểm khai phá đất từ năm 1976, việc xin, giao đất ở mới. Mặt khác, qua kiểm tra hồ sơ lưu trữ cũng không tìm được văn bản nào có liên quan đến việc giải quyết cấp đất cho Bà H.

Theo kết quả trên, Bà Trần Thị H có vào khu vực đất này để canh tác nhưng không ổn định, thường xuyên, liên tục. Năm 2002, khi UBND xã B ngăn cấm không cho lấn chiếm đất Nhà nước quản lý, Bà Trần Thị H đã bỏ, không còn sử dụng đất, phần đất trên do địa phương quản lý. Đến năm 2007, UBND huyện đã sử dụng đất để thực hiện dự án khu dân cư 21 ha”.

Từ cơ sở nêu trên, UBND huyện ban hành Quyết định số 3234/QĐ-UBND ngày 01/11/2019 về việc giải quyết khiếu nại (lần đầu) của Bà Trần Thị H. Tại Điều 1 và Điều 2 của Quyết định:

“Điều 1. Bác đơn khiếu nại của Bà Trần Thị H khiếu nại văn bản số 3940/UBND-PTNMT ngày 06/6/2019 của UBND huyện C về việc trả lời đơn của Bà Trần Thị H.

Không chấp nhận yêu cầu trả lại và xin được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất phần diện tích 2.925 m2 của Bà Trần Thị H.

Không có căn cứ để xem xét giải quyết yêu cầu của Bà Trần Thị H tại buổi đối thoại về việc xin giao lại vài trăm mét đất cho con cháu ở không thông qua hình thức đấu giá.

Điều 2. Chỉ đạo xử lý Giao Phòng Tài nguyên và Môi trường đính chính nội dung văn bản số 3940/UBND-PTNMT ngày 06/6/2019 cho rằng Bà Trần Thị H không khai khẩn, không có quá trình canh tác, sử dụng”.

Tiếp đó, UBND huyện ban hành Văn bản số 9609/UBND-PTNMT ngày 06/12/2019 về việc đính chính nội dung Văn bản số 3940/UBND-PTNMT ngày 06/6/2019. Nội dung văn bản nêu:

“Tại phần 2, nội dung văn bản có ghi: Qua xác minh một số hộ dân sinh sống tại khu vực đất Bà H kiến nghị trả lại cho Bà thì không có khai khẩn đất tại khu vực này.

UBND huyện đính chính như sau: Từ năm 1993 đến trước năm 2002, Bà H thỉnh thoảng có vào khu vực đất này khai phá, sử dụng đất nhưng không ổn định, liên tục. Từ năm 2002 (khi Nhà nước ngăn cấm khai phá, lấn chiếm đất Nhà nước quản lý) cho đến khi thu hồi làm dự án khu dân cư 21 ha, Bà H đã bỏ không canh tác, sử dụng đất”.

UBND huyện C không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Bà Trần Thị H, đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu bác đơn khởi kiện của Bà Trần Thị H.

Người làm chứng Ông Nguyễn Văn D trình bày:

Diện tích đất Bà H khởi kiện UBND huyện C do Ông D khai phá năm 1976, trên đất có trồng lang, trồng mỳ, ngoài ra không có tài sản hay vật kiến trúc gì khác. Ông canh tác được 01 tháng thì tìm được miếng đất khác để trồng lúa nên để lại diện tích đất này cho vợ chồng Bà H canh tác, ông chỉ lấy tiền hoa màu trên đất. Sau đó, ông không rõ Bà H sử dụng như thế nào. Đến năm 1993 thì Bà H có báo cho ông biết đất này nhà nước đã quy hoạch và chuẩn bị thu hồi, chính quyền địa phương có tiến hành họp dân và có hứa sẽ giao đất mới cho Bà H nhưng đến nay vẫn không thấy giao.

Người làm chứng Bà Lê Thị J, Ông Trần Văn K, ông Phùng Văn M trình bày:

Các ông bà không biết gì về nguồn gốc, qúa trình sử dụng diện tích đất Bà H khởi kiện UBND huyện C yêu cầu trả lại. Các ông bà có canh tác đất ở khu vực này, có thấy Bà H có canh tác trên đất. Sau đó, chính quyền địa phương ngăn chặn không cho canh tác nên các ông bà không canh tác nữa.

Tại Bản án sơ thẩm số 51/2020/HC-ST ngày 04 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đã quyết định:

Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 193 Luật Tố tụng Hành chính; Căn cứ Điều 100, Điều 101 Luật Đất đai Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Bác yêu cầu khởi kiện của Bà Trần Thị H yêu cầu hủy Văn bản số 3940/UBND-PTNMT ngày 06/6/2019 của Ủy ban nhân dân huyện C; hủy Quyết định số 3234/QĐ-UBND ngày 01/11/2019 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện C; buộc Ủy ban nhân dân huyện C cấp lại đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích 2.925 m2 tại khu phố P, thị trấn B, huyện C cho hộ Bà Trần Thị H.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí sơ thẩm và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Ngày 14/4/2020 người khởi kiện Bà Trần Thị H kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Người khởi kiện giữ nguyên yêu cầu kháng cáo đề nghị sửa Bản án sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện về việc Hủy Quyết định số 3940/UBND-PTNMT ngày 06/6/2019 của UBDN huyện C, hủy Quyết định số 3224/QĐ-UBND ngày 01/11/2019 của Chủ tịch UBND huyện C; buộc UBND huyện C cấp lại đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích 2.925m2 tại khi phố P, thị trấn B, huyện C cho hộ Bà Trần Thị H.

Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị kiện tranh luận: Bà H không có tài liệu chứng cứ gì chứng minh bà sử dụng thường xuyên, liên tục, lâu dài nên đề nghị bác đơn kháng cáo của Bà H, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm giải quyết vụ án như sau: Về tố tụng: Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định từ khi thụ lý vụ án cho đến khi xét xử phúc thẩm vụ án theo quy định của Luật tố tụng hành chính. Về nội dung: Người khởi kiện kháng cáo nhưng không đưa ra được tình tiết chứng cứ làm thay đổi nội dung vụ án nên đề nghị không chấp nhận kháng cáo của người khởi kiện, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử xét thấy:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Tại phiên toà phúc thẩm người bị kiện có đơn xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử áp dụng Điều 225 Luật tố tụng hành chính xét xử vắng mặt người bị kiện.

[1.2] Đối tượng khởi kiện, thời hiệu khởi kiện, thẩm quyền giải quyết vụ án cấp sơ thẩm đã xác định đúng quy định Điều 30, Điều 32, Điều 116 Luật Tố tụng hành chính.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Về trình tự, thủ tục và thẩm quyền:

Văn bản số 3940, Quyết định số 3234 được ban hành là đúng trình tự, thủ tục và thẩm quyền theo quy định của Luật Đất đai, Luật Khiếu nại.

[2.2] Về nội dung:

Theo Bản đồ địa chính thị trấn B đo đạc năm 1998 và số hóa năm 2006 thì diện tích 2.925m2 Bà H yêu cầu trả lại thuộc thửa đất bao số 44, tờ bản đồ số 14, loại đất là chưa sử dụng, UBND xã đăng ký.

Diện tích này trước năm 1992 là đất hoang hóa. Khoảng năm 1993 - 1996, một số hộ dân vào khu vực này khai phá, lấn chiếm đất để làm rẫy, trồng cây, trong đó có hộ Bà Trần Thị H.

Năm 1997, khi Nhà nước tiến hành đo đạc giải thửa bản đồ địa chính xã B, Bà H cũng không đăng ký với địa phương.

Theo kết quả xác minh, tại thời điểm năm 1999, chỉ thấy Bà H ra vào khu vực đất này, trên đất chỉ có 01 giếng đào, không trồng trọt cây cối.

Năm 2002, một số hộ dân tiếp tục vào khu vực này khai phá lấn chiếm đất trái phép, UBND xã B đã ban hành Thông báo số 23/TB-UB ngày 23/9/2002 v/v nghiêm cấm khai phá và lấn chiếm đất công thổ Quốc gia do UBND xã quản lý. Bà Trần Thị H cũng xác định khi UBND xã B ngăn chặn, yêu cầu không được trồng cây do khu vực này thì Bà H đã ngưng canh tác tại phần đất trên, giao lại cho Nhà nước quản lý.

Năm 2007, UBND huyện C khi thực hiện dự án đường D1, D2, D3 thuộc công trình các tuyến đường giao thông khi dân cư 21 ha tại thị trấn B, huyện C đã thu hồi diện tích nói trên và đền bù cho các hộ dân nưng không có tên Bà H trong danh sách bị ảnh hưởng.

Như vậy có cơ sở xác định phần diện tích đất 2.925 m2 Bà Trần Thị H có khiếu kiện là đất do Nhà nước quản lý. Bà H có vào khu vực đất này để canh tác nhưng không ổn định, không thường xuyên liên tục, không lâu dài, không thực hiện kê khai và từ năm 1995 Bà H đã không còn canh tác, sử dụng diện tích này. Bà H cho rằng đây là đất do bà khai phá nhưng không có tài liệu chứng minh. Đồng thời, theo lời trình bày của Bà H tại Đơn khởi kiện và biên bản phiên tòa sơ thẩm, lời khai của những người làm chứng Ông Nguyễn Văn D, Bà Lê Thị J, ông Trần Văn K, ông Phùng Văn M thì Bà H canh tác trên diện tích 2.925m2 nhưng đã ngưng canh tác từ trước năm 1995. Và đến năm 2007 khi UBND huyện thu hồi đất không có tên hộ Bà H bị thu hồi trong dự án trên. Do vậy Bà H không đủ điều kiện để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định tại Điều 100, Điều 101 Luật Đất đai.

Văn bản số 3940 và Quyết định số 3234 không chấp nhận yêu cầu trả lại đất và xin được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất phần diện tích 2.925 m2 của Bà Trần Thị H là đúng quy định.

Như vậy, người khởi kiện kháng cáo nhưng không đưa ra được những tình tiết, chứng cứ làm thay đổi bản chất vụ án nên Hội đồng xét xử phúc thẩm thống nhất quan điểm của đại diện Viện kiểm sát, không chấp nhận kháng cáo của người khởi kiện, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[3] Về án phí phúc thẩm: Do Bà H là người cao tuổi nên được miễn án phí theo quy định.

[4] Các phần khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

I. Áp dụng khoản 1 Điều 241 Luật tố tụng hành chính.

Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của Bà Trần Thị H; giữ nguyên quyết định Bản án hành chính sơ thẩm:

Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 193 Luật Tố tụng Hành chính; Căn cứ Điều 100, Điều 101 Luật Đất đai Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Bác yêu cầu khởi kiện của Bà Trần Thị H yêu cầu hủy Văn bản số 3940/UBND-PTNMT ngày 06/6/2019 của Ủy ban nhân dân huyện C; hủy Quyết định số 3234/QĐ-UBND ngày 01/11/2019 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện C; buộc Ủy ban nhân dân huyện C cấp lại đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích 2.925 m2 tại khu phố P, thị trấn B, huyện C cho hộ Bà Trần Thị H.

II. Các phần khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

III. Về án phí phúc thẩm: Bà Trần Thị H được miễn án phí.

Bản án có hiệu lực kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

48
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai số 94/2021/HC-PT

Số hiệu:94/2021/HC-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hành chính
Ngày ban hành:15/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về