TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI
BẢN ÁN 90/2024/HC-PT NGÀY 27/02/2024 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI
Ngày 27 tháng 02 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại H xét xử phúc thẩm, công khai, vụ án hành chính thụ lý số 689/2023/TLPT- HC ngày 26 tháng 9 năm 2023 do có kháng cáo của người khởi kiện, đối với Bản án hành chính sơ thẩm số 11/2023/HC-ST ngày 13 tháng 01 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố H.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 978/2024/QĐ-PT ngày 31 tháng 01 năm 2024, giữa các đương sự:
* Người khởi kiện: Ông Tạ Văn T, sinh năm 1943; Địa chỉ: Xóm T, xã La Phù, huyện Đ, thành phố H; có mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp: Ông Vũ Ngọc C, Luật sư Công ty TNHH A- đoàn Luật sư thành phố H, có mặt.
* Người bị kiện:
- Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố H; Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Trọng Đ; chức vụ: Phó Chủ tịch; vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt.
- Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Đ, thành phố H; Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn A; chức vụ: Phó Chủ tịch; vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt.
* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
- Ủy ban nhân dân xã La Phù, huyện Đ, thành phố H.
- Ông Ngô Văn Đ, sinh năm 1955 và bà Tạ Thị Đ, sinh năm 1958; cùng địa chỉ: Số 01 ngách 332/22 đường La Phù, xóm T, xã La Phù, huyện Đ, thành phố H; ông Đ có mặt, vắng mặt bà Đ.
- Ngân hàng thương mại cổ phần Đ (Sbank); địa chỉ: Số 198 Trần Quang Khải, phường Lý Thái Tổ, quận Hoàn Kiếm, H; Người đại diện theo ủy quyền: Ông Vũ Đình K; chức vụ: Phó Tổng Giám đốc; vắng mặt.
- Ngân hàng thương mại cổ phần Đ (Sbank) - chi nhánh Hà Đông; địa chỉ: Số 150 T, phường Mộ Lao, quận Hà Đông, thành phố H; Người đại diện theo ủy quyền: Bà Nguyễn Thị Vân A, bà Phạm Thảo N và bà Nguyễn Hoàng Thu T; vắng mặt.
- Công ty cổ phần D Việt Nam; địa chỉ: Khu công nghiệp Phú Nghĩa, huyện Chương Mỹ, thành phố H; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và lời khai tại Tòa án, ông Tạ Văn T trình bày: Tại trích lục bản đồ trích đo hiện trạng thửa đất ngày 03/08/2008 và xác nhận của UBND xã La Phù ngày 12/08/2008 đều xác nhận Hộ ông là chủ sử dụng thửa đất thổ cư số 283, tờ bản đồ số 04, diện tích 440,08m2 được thể hiện trong sổ mục kê đăng ký đất đai xóm T, xã La Phù trang số 04 ; tuy nhiên kết quả đo vẽ hiện trạng ngày 06/09/2010 thì thửa đất có diện tích 424,6m2, giảm đi 15,4m2.
Từ khi nhận chuyển nhượng năm 1947, gia đình ông sử dụng đã có nhà cấp 4 trên đất được thể hiện trên bản đồ năm 1938. Phía sau nhà cấp 4 cũ vẫn còn một khoảng trống rộng khoảng 1,5m rồi mới tiếp giáp đất của ông Ngô Văn O. Trong quá trình sử dụng đất gia đình ông không chuyển nhượng cho ai. Như vậy ranh giới đất giữa gia đình ông với gia đình ông O đã có sự thay đổi, hiện trạng sử dụng đất bị giảm là do ông O đã tự ý lấn chiếm diện tích đất thuộc quyền sử dụng của gia đình ông.
Ông nhận thấy ông Ngô Văn O có hành vi lấn chiếm đất của mình, nên đã có đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất với ông O. Quá trình hòa giải tại Ủy ban nhân dân xã La Phù không đi đến thống nhất. Ngày 28/02/2011, Ủy ban nhân dân huyện Đ ban hành Quyết định số 193/QĐ- UBND về việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất giữa hộ ông với hộ ông Ngô Văn O. Theo đó đã quyết định : Giữ nguyên hiện trạng ranh giới sử dụng đất, cụ thể: Ranh giới sử dụng đất giữa hai hộ là đường thẳng tiếp giáp giữa bờ móng tường gia đình ông và rãnh tiêu nước của gia đình ông O.
Không đồng ý với Quyết định số 193/QĐ-UBND ngày 28/11/2011 của UBND huyện Đ, ông tiếp tục khiếu nại đến Ủy ban nhân dân thành phố H.
Ngày 19/02/2013, Ủy ban nhân dân thành phố H ban hành Quyết định số 1170/QĐ-UBND về việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất giữa hai gia đình. Theo đó Quyết định số 1170/QĐ-UBND có nội dung đồng ý với Quyết định 193/QĐ-UBND của Ủy ban nhân dân huyện Đ.
Giao Ủy ban nhân dân huyện Đ chỉ đạo việc đo đạc, hướng dẫn việc phân định ranh giới, cắm mốc giới trên thực địa, chỉnh lý hồ sơ địa chính và hướng dẫn các hộ thủ tục, hồ sơ xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
Ông cho rằng Quyết định số 193/QĐ-UBND và Quyết định số 1170/QĐ- Ủy ban nhân dân đã xâm phạm đến quyền lợi ích hợp pháp của ông.
Ngày 11/10/2017, ông gửi đơn khởi kiện đến Tòa án nhân dân thành phố H yêu cầu hủy:
- Quyết định số 193/QĐ-UBND ngày 28/11/2011 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Đ.
- Quyết định số 1170/ QĐ-UBND ngày 19/02/2013 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố H.
Ngày 05/07/2022, ông có đơn khởi kiện bổ sung yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BU 026946 do Ủy ban nhân dân huyện Đ cấp ngày 18/11/2014 cho ông Ngô Văn Đ.
Ý kiến của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố H : Việc tranh chấp quyền sử dụng đất giữa gia đình ông T với ông O đã được Ủy ban nhân dân huyện Đ ban hành Quyết định số 193/QĐ-UBND về việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất.
Sau khi kiểm tra hồ sơ, rà soát hồ sơ giải quyết khiếu nại của ông Tạ Văn T, Ủy ban nhân dân thành phố H vẫn giữ nguyên quan điểm tại Quyết định số 1170/QĐ-UBND ngày 19/02/2013.
Ý kiến của Ủy ban nhân dân và Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Đ: Ngày 19/02/2013, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố H ban hành Quyết định số 1170/QĐ-UBND ngày 19/02/2013 về việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất có nội dung đồng ý với Quyết định 193/QĐ-UBND của Ủy ban nhân dân huyện Đ. Giao Ủy ban nhân dân huyện Đ chỉ đạo việc đo đạc, hướng dẫn việc phân định ranh giới, cắm mốc giới trên thực địa, chỉnh lý hồ sơ địa chính và hướng dẫn các hộ thủ tục, hồ sơ xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
Thực hiện Quyết định số 1170/QĐ-UBND và Quyết định số 193/QĐ- UBND. Ngày 20/01/2014, các ban ngành của huyện và xã đã tiến hành cắm mốc giới trên thực địa ranh giới đất giữa hai gia đình ông T, ông O. Ngày 20/4/2014, gia đình ông O có giấy giao quyền sử dụng đất cho con là ông Ngô Văn Đ đối với thửa đất số 384, tờ bản đồ số 04, diện tích 314m2. Ông Ngô Văn Đ đã kê khai hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất trên. Ủy ban nhân dân xã đã thực hiện niêm yết công khai hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, trong suốt thời gian niêm yết công khai Ủy ban nhân dân xã không nhận được đơn thư khiếu nại nào.Căn cứ tờ trình số 24/TTr-UBND ngày 31/7/2014 của Ủy ban nhân dân xã La Phù về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở của 8 hộ gia đình trong đó có ông Ngô Văn Đ. Ngày 15/9/2014, Ủy ban nhân dân huyện Đ ban hành Quyết định số 5949/QĐ-UBND về việc công nhận quyền sử dụng đất ở tại nông thôn cho 8 gia đình trong đó có ông Ngô Văn Đ. Ngày 18/11/2014, Ủy ban nhân dân huyện Đ đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BU 026946 cho ông Ngô Văn Đ đối với thửa đất số 384, tờ bản đồ số 04, diện tích 314m2. Việc ban hành Quyết định số 193/QĐ-UBND và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Ngô Văn Đ đúng quy định của pháp luật.
Ý kiến của Ủy ban nhân dân xã La Phù: Ông Tạ Văn T sử dụng thửa đất 390, diện tích 414m2 tờ bản đồ số 02, đo vẽ năm 1986 có nguồn gốc là đất của ông Ngô Văn Ph (thuộc thửa đất 1321, tờ bản đồ số 2, đo vẽ năm 1938). Ông Ngô Văn O sử dụng thửa đất số 453, diện tích 329m2, tờ bản đồ số 2, đo vẽ năm 1986 có nguồn gốc là đất của ông Tạ Văn T (thuộc thửa đất 1347, tờ bản đồ số 2, đo vẽ năm 1938). Tại bản đồ địa chính xã La Phù năm 2001, hộ ông Tạ Văn T sử dụng thửa số 383, diện tích 424,6m2, ông Ngô Văn O sử dụng thửa đất số 384, diện tích 314m2. Việc sử dụng đất của hai gia đình từ năm 1938 đến khi xảy ra tranh chấp có sự biến động về diện tích sử dụng do mua bán, chuyển nhượng hoặc chia đất cho các thành viên trong gia đình. Tuy nhiên hiện trạng sử dụng đất và ranh giới sử dụng đất của hai gia đình ổn định, có khuôn viên riêng và đã xây dựng nhà kiên cố phù hợp với trích đo hiện trạng đã được Phòng tài nguyên và Môi trường huyện Đ xác nhận tháng 10/2020.
Trên cơ sở quyết định giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất số 193/QĐ-UBND của UBND huyện Đ và số 1170/QĐ-UBND của Ủy ban nhân dân thành phố H. Tổ công tác tiến hành đo đạc, xác định mốc giới giữa hai gia đình ông T với gia đình ông O.
Sau khi nhận mốc giới, ông O chuyển giao quyền sử dụng, quản lý cho ông Ngô Văn Đ (con trai). Ông Đ đã kê khai hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Ủy ban nhân dân xã đã tiếp nhận và tiến hành các thủ tục theo quy định trình lên Ủy ban nhân dân huyện Đ để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho 8 gia đình trong đó có trường hợp của ông Ngô Văn Đ.
Việc tranh chấp quyền sử dụng đất giữa ông T với ông O xảy ra từ năm 2002, UBND xã đã tiến hành xác minh, hòa giải và ngày 20/7/2004, Ủy ban nhân dân xã La Phù ban hành Quyết định số 52/QĐ- UBND về việc công nhận hòa giải thành vụ tranh chấp ranh giới đất giữa ông Tạ Văn T và ông Ngô Văn O.
Sau đó ông T đã khiếu nại Quyết định số 52/QĐ-UBND, Ủy ban nhân dân xã đã báo lên Ủy ban nhân dân huyện Đ tại Báo cáo số 22/BC-UBND.
Ý kiến của ông Ngô Văn Đ, bà Tạ Thị Đ: Trước đây đất của gia đình ông ở vị trí thửa đất của gia đình ông T, còn đất của ông T ở vị trí của gia đình ông bây giờ. Năm 1947, giữa hai gia đình có việc đổi đất cho nhau. Năm 2003, gia đình ông xây lại nhà vẫn xây trên móng nhà cũ, lúc đó ông T không có ý kiến phản đối gì. Việc ông T có đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất thì đã được Ủy ban nhân dân các cấp đã giải quyết. Năm 2014, Ủy ban nhân dân huyện Đ đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông (Ngô Văn Đ), thửa đất số 384 tờ bản đồ số 04, diện tích 314m2. Sau đó ông đã đồng ý thế chấp Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất này để bảo lãnh cho Công ty D Việt Nam làm thủ tục vay vốn tại Ngân hàng TMCP Đ- chi nhánh Hà Đông.
Vợ chồng ông không đồng ý với yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Tạ Văn T.
Ý kiến của Công ty TNHH D Việt Nam: Ngày 10/02/2015 bố mẹ bà là ông Ngô Văn Đ và Tạ Thị Đ đã thế chấp Giấy chứng nhận QSD đất số BU 026946 do Ủy ban nhân dân huyện Đ cấp ngày 18/11/2014 cho ông Ngô Văn Đ cho Ngân hàng TMCP Đ- Chi nhánh Hà Đông để đảm bảo cho khoản vay của Công ty cổ phần D Việt Nam. Thời hạn vay là 01 năm từ ngày 25/5/2022. Nay bà không đồng ý yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Tạ Văn T.
Ý kiến của Ngân hàng TMCP Đ- Chi nhánh Hà Đông: Tính đến ngày 11/01/2013 thì Công ty TNHH D Việt Nam còn nợ ngân hàng gần 3 tỷ đồng. Đề nghị Tòa án bảo vệ quyền lợi của Ngân hàng.
Bản án hành chính sơ thẩm số 11/2023/HC-ST ngày 13 tháng 01 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố H đã căn cứ khoản 3 Điều 3; Điều 30, 32, 116, khoản 2 Điều 193, 194, 204, 206 Luật Tố tụng hành chính; Luật tổ chức HĐND và UBND, Luật đất đai năm 2003, 2013, Nghị định 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính Phủ quy định về thi hành Luật đất đai; Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật đất đai; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí; xử bác đơn khởi kiện của ông Tạ Văn T yêu cầu hủy:
- Quyết định số 193/QĐ-UBND ngày 28/11/2011 của Chủ tịch UBND huyện Đ về giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất.
- Quyết định số 1170/QĐ-UBND ngày 19/02/2013 của Chủ tịch UBND thành phố H về giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất.
- Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BU 026946 do UBND huyện Đ cấp cho ông Ngô Văn Đ ngày 18/11/2014.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, người khởi kiện có đơn kháng cáo đối với bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã tạo điều kiện để các bên thỏa thuận nhưng không có kết quả; người khởi kiện giữ nguyên nội dung kháng cáo, đề nghị sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại H sau khi phân tích các nội dung kháng cáo đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 241 Luật tố tụng hành chính, bác kháng cáo; giữ nguyên quyết định của Bản án hành chính sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1]. Ông Tạ Văn T khởi kiện yêu cầu hủy các Quyết định số 193/QĐ- UBND ngày 28/11/2011 của Chủ tịch UBND huyện Đ; Quyết định số 1170/QĐ-UBND ngày 19/02/2013 của Chủ tịch UBND thành phố H; Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BU 026946 do UBND huyện Đ cấp cho ông Ngô Văn Đ ngày 18/11/2014. Đây là quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai, Tòa án nhân dân thành phố H xác định các quyết định nêu trên là đối tượng khởi kiện, đồng thời xem xét tính hợp pháp của quyết định hành chính liên quan là Quyết định số 5940/QĐ-UBND ngày 15/9/2014 của UBND huyện Đ (về việc công nhận quyền sử dụng đất ở tại nông thôn cho 08 hộ gia đình, cá nhân tại xã La Phù, huyện Đ, H, trong đó có hộ ông Nguyễn Văn Đ) là đúng quy định theo khoản 2 Điều 3, khoản 1 Điều 30, Điều 32, Điều 193 Luật tố tụng hành chính năm 2015.
[2] Kháng cáo của người khởi kiện được thực hiện trong thời hạn quy định nên đủ điều kiện xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
[3] Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng người đại diện theo ủy quyền của bị đơn là Ủy ban nhân dân thành phố H, Chủ tịch và Ủy ban nhân dân huyện Đ; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Ủy ban nhân dân xã La Phù, bà Tạ Thị Đ và một số người khác… vắng mặt tại phiên tòa; tuy nhiên họ đã có đơn xin xét xử vắng mặt nên việc xét xử đảm bảo quy định tại Điều 225 Luật tố tụng hành chính.
[4] Về nguồn gốc đất: Năm 1947 hộ gia đình ông Ngô Văn Ph (ông của ông Đ) làm văn tự bán đứt cho ông Tạ Văn T (bố ông T) thửa đất số 1321 diện tích 655m2 (một sào 12 thước), không thể hiện hình thể, kích thước có xác nhận của địa chính và Ủy ban hành chính xã. Sau đó, hộ gia đình ông T chuyển nhượng cho ông O diện tích 455m2 trong giấy chuyển nhượng cũng không thể hiện hình thể, kích thước thửa đất nhưng có xác nhận của địa chính và Ủy ban hành chính xã. Cùng năm 1947 ông Tạ Văn Kh (em ông T) chuyển nhượng cho ông O diện tích đất 350m2 thuộc thửa đất số 3431 liền kề với thửa đất 1347. Việc chuyển nhượng có xác nhận của chính quyền địa phương. Năm 1976, ông T nhận chuyển nhượng 330m2 đất của ông Phạm Quang B, giáp với phía bắc thửa đất số 1321 của ông T (giấy tờ mua bán viết tay). Như vậy, thửa đất số 390, tờ bản đồ số 2 xã La Phù (chủ sử dụng là hộ ông Tạ Văn T) có nguồn gốc là của hộ ông Ngô Văn Ph, trước đây thuộc thửa 1321, tờ bản đồ số 2 đo vẽ năm 1938. Thửa đất số 453, tờ bản đồ số 2 xã La Phù (chủ sử dụng là ông Ngô Văn O) có nguồn gốc là của ông Tạ Văn T, trước đây thuộc thửa 1347, tờ bản đồ số 2, đo vẽ năm 1938.
[5] Sau quá trình các hộ sử dụng và chuyển nhượng quyền sử dụng đất, bản đồ năm 1986 xác định hộ ông T sử dụng thửa đất số 390, tờ bản đồ số 2, diện tích 414m2, hộ ông O sử dụng thửa đất số 453, tờ bản đồ số 2, diện tích 329m2. Tại Bản đồ địa chính xã La Phù đo vẽ năm 2001 thể hiện: hộ ông T sử dụng thửa số 383, tờ bản đồ 04, diện tích đất 440,8m2; hộ ông O sử dụng thửa đất số 384, tờ bản đồ 04, diện tích 272,6m2. Theo kết quả đo vẽ hiện trạng sử dụng đất ngày 6/9/2010 do Công ty CP tư vấn khảo sát đo đạc và xây dựng H lập, thửa đất 383 chủ sử dụng là hộ ông T có diện tích 424,6m2; thửa đất 384 chủ sử dụng ông Ngô Văn O có diện tích 314m2. Hiện trạng sử dụng đất hai hộ gia đình ông O và ông T đã xây dựng nhà ở kiên cố phù hợp với bản trích đo hiện trạng đã được Phòng TNMT huyện Đ xác nhận tháng 10/2010.
[6] Các đương sự trình bày, trước đây ranh giới hai thửa đất của hai hộ trên là hàng rào, sau đó xây tường rào trên cơ sở hàng rào cũ và xây nhà kiên cố. Năm 2001, nhà nước có chủ trương đo hiện trạng sử dụng đất của các gia đình để làm căn cứ cấp giấy chứng nhận, gia đình ông T và ông O đã thống nhất ranh giới để đo đạc và vẽ hiện trạng sử dụng đất của hai hộ. Hai gia đình mâu thuẫn, tranh chấp quyền sử dụng đất xảy ra từ năm 2002, ông T phá tường rào và có đơn đề nghị giải quyết việc gia đình ông O lấn đất của gia đình ông, yêu cầu xác định ranh giới thửa đất của ông với ông Ngô Văn O theo bản đồ 1938.
[7] Xét thấy: Diện tích đất của 2 gia đình có số liệu khác nhau giữa các lần đo đạc, một phần do những biến động (đổi, chuyển nhượng) trong quá trình sử dụng đất nên việc ông T đề nghị căn cứ diện tích đất theo bản đồ 1938 là không phù hợp. Tại các buổi hòa giải và đo đạc thực tế, hộ gia đình ông Ngô Văn O và ông Tạ Văn T thỏa thuận giữ nguyên hiện trạng sử dụng đất của hai gia đình nên UBND xã La Phù ban hành Quyết định số 52/QĐ-UB ngày 20/7/2004 về việc công nhận hòa giải thành vụ tranh chấp ranh giới đất với nội dung giữ nguyên hiện trạng sử dụng đất đã được xác lập từ trước tại đường ranh giới giáp nhau giữa hai gia đình ông Tạ Văn T và ông Ngô Văn O. Không đồng ý Quyết định số 52/QĐ-UBND nêu trên, ông T có đơn khiếu nại. Trên cơ sở xác minh, thu thập các tài liệu, chứng cứ, UBND huyện Đ xác định mặc dù diện tích đất của hộ gia đình ông T và ông O không khớp với các số liệu đo đạc qua các thời kỳ, tuy nhiên, hai gia đình sử dụng đất ổn định, xây nhà ở kiên cố, có khuôn viên và ranh giới rõ ràng; bản đồ 1938 không có kích thước, không có số hiệu thửa đất nên không đủ cơ sở để xác định ranh giới sử dụng của hai hộ từ đó ban hành Quyết định số 193/QĐ-UBND với nội dung giữ nguyên hiện trạng ranh giới sử dụng đất giữa hai hộ gia đình ông T và ông O là có cơ sở. Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố H ban hành Quyết định số 1170/QĐ-UBND đồng ý với nội dung Quyết định 193/QĐ-UBND và giao cho UBND huyện Đ chỉ đạo việc đo đạc, hướng dẫn cắm mốc giới trên thực địa, chỉnh lý hồ sơ địa chính và hướng dẫn các hộ thủ tục, hồ sơ xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật.
[8] Thực hiện Quyết định số 1170/QĐ-UBND của Chủ tịch UBND thành phố, ngày 20/01/2014, UBND xã La Phù phối hợp với UBND huyện Đ và các ban ngành liên quan tiến hành cắm mốc giới giữa hai hộ gia đình nhưng ông T không khiếu nại, khiếu kiện. Hội đồng xét duyệt cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất đối với 8 hộ gia đình trong đó có hộ ông Đông, quy trình được tiến hành công khai, theo đúng quy định tại Điều 70 Nghị định 43/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật đất đai. Vì vậy, sau khi được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BU 026946, ông Ngô Văn Đ có quyền thực hiện các giao dịch dân sự theo quy định của pháp luật.
[9] Tổng hợp các phân tích trên cho thấy, kháng cáo của ông Tạ Văn T không có cơ sở chấp nhận, cần giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm như quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại phiên tòa.
[10] Về án phí: Ông Tạ Văn T là người cao tuổi, có đơn xin miễn giảm án phí nên được miễn án phí hành chính phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 241 Luật tố tụng hành chính; Nghị quyết 326/2016 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.
1. Bác kháng cáo của người khởi kiện: ông Tạ Văn T, giữ nguyên quyết định Bản án hành chính sơ thẩm số 11/2023/HC-ST ngày 13 tháng 01 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố H.
2. Về án phí: Ông Tạ Văn T được miễn án phí hành chính phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai số 90/2024/HC-PT
Số hiệu: | 90/2024/HC-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Ngày ban hành: | 27/02/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về