Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai số 816/2022/HC-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 816/2022/HC-PT NGÀY 27/09/2022 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI

Ngày 27 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số 489/2022/TLPT-HC ngày 17 tháng 8 năm 2022 về “Khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai”.Do Bản án hành chính sơ thẩm số 17/2022/HC-ST ngày 23/5/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 1856/2022/QĐPT - HC ngày 12 tháng 9 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Người khởi kiện: Bà Đinh Thị H, sinh năm 1968 – Có mặt;

Địa chỉ: Tổ 10, ấp Mỹ Trung, xã M, huyện C, tỉnh Tiền Giang;

Người đại diện hợp pháp của người khởi kiện: Ông Nguyễn Thanh H1, sinh năm 1980; Địa chỉ: Số 137C Nguyễn Văn Cừ, phường A, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ (Văn bản ủy quyền ngày 19/9/2022) – Có mặt;

2. Người bị kiện: Ủy ban nhân dân huyện C, tỉnh Tiền Giang;

Địa chỉ: 279 Nguyễn Chí Công, Khu phố 1, thị trấn C, huyện C, tỉnh Tiền Giang;

Người đại diện hợp pháp của Ủy ban nhân dân huyện C: Ông Lê Văn Y – Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện C (Giấy ủy quyền số 46/UQ-UBND ngày 20/12/2021) - Có văn bản yêu cầu xét xử vắng mặt;

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Ủy ban nhân dân huyện C: Ông Nguyễn Hoàng S – Trưởng Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện C – Có văn bản yêu cầu xét xử vắng mặt;

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

3.1. Ông Huỳnh Hữu N, sinh năm 1967 – Có mặt;

Địa chỉ: Tổ 10, ấp Mỹ Trung, xã M, huyện C, tỉnh Tiền Giang;

Người đại diện hợp pháp của ông Huỳnh Hữu N: Ông Nguyễn Thanh H1, sinh năm 1980; Địa chỉ: Số 137C Nguyễn Văn Cừ, phường A, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ (Văn bản ủy quyền ngày 19/9/2022) – Có mặt;

3.2. Anh Huỳnh Minh H2, sinh năm 2008 – Vắng mặt;

Địa chỉ: Tổ 10, ấp Mỹ Trung, xã M, huyện C, tỉnh Tiền Giang;

Người đại diện hợp pháp của anh Huỳnh Minh H2: Ông Huỳnh Hữu N và bà Đinh Thị H;

3.3. Ông Đinh Văn T, sinh năm 1951 – Có mặt;

Địa chỉ: Số 434, ấp Mỹ Hòa, xã A, huyện C, tỉnh Tiền Giang;

3.4. Anh Đinh Văn Bé H3, sinh năm 1973 – Có mặt;

Địa chỉ: Số 435, ấp Mỹ Hòa, xã A, huyện C, tỉnh Tiền Giang;

3.5. Ông Võ Văn S, sinh năm 1963 – Có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt;

Địa chỉ: Ấp Mỹ Trung, xã M, huyện C, tỉnh Tiền Giang;

4. Người kháng cáo: Người khởi kiện bà Đinh Thị H và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Huỳnh Hữu N.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 15/4/2021 và lời khai tiếp theo của người khởi kiện bà Đinh Thị H trình bày:

Năm 1967, cha của bà là cụ Đinh Văn Thôn mua phần đất diện tích 2.400 m2 của cụ Nguyễn Văn Phòng, đất này đã được kê khai đăng ký Sổ Đăng ký ngày 22/12/1983 và Sổ Mục kê đất tháng 12/1983 của hồ sơ Tư liệu 299, đất vườn, thửa số 1, lô số 1351, tờ bản đồ số 2, diện tích 2.430 m2 do ông Đinh Văn Tất đứng tạm kê khai. Đến năm 1998, cụ Thôn chia đất tách thành 02 thửa là thửa đất số 756, diện tích 1.582 m2 cho ông T và thửa đất số 2182, diện tích 868 m2 cho bà H. Bà H đã được Ủy ban nhân dân huyện C cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 3838/413745 ngày 10/8/2000, hai thửa đất gồm thửa đất số 676, diện tích 1.117 m2, loại đất 3L và thửa đất số 2181, diện tích 868 m2, loại đất V+T.

Năm 2002, bà cho cháu là anh Đinh Văn Bé H3 sử dụng thửa đất số 2182, đến nay ông Đinh Văn T và anh Bé H3 đã chiếm luôn phần đất đó. Hiện nay bà đã tranh chấp vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân huyện C đối với anh Bé H2 và ông T để đòi lại diện tích 868 m2.

Vào ngày 18/3/2021, bà nhận được Quyết định số 2118/QĐ-UBND ngày 16/12/2020 của Ủy ban nhân dân huyện C (sau đây viết tắt là Quyết định số 2118) thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 3838/413745 ngày 10/8/2000 của bà, mà không thông báo cho bà biết lý do. Bà H khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết hủy Quyết định số 2118.

Tại Công văn số 3311/UBND-NC ngày 07/12/2021 và lời khai tiếp theo của người đại diện hợp pháp của người bị kiện Ủy ban nhân dân huyện C trình bày:

Ngày 18/8/2020, bà Đinh Thị H có đơn yêu cầu xem xét lại hồ sơ đất đai thửa đất số 2181 có sai số liệu, bản vẽ. Sau khi kiểm tra, Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Tiền Giang có báo cáo số 2668/BC-STNMT ngày 15/6/2020 nhận định: Ngày 01/12/1998, bà Đinh Thị H có Đơn đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (lần đầu) theo hồ sơ địa chính 1/5.000, bao gồm thửa đất số 2181 và thửa đất số 676. Ngày 10/8/2000, hộ bà Đinh Thị H được Ủy ban nhân dân huyện C cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 3838/413745, hai thửa đất, gồm thửa đất số 676, diện tích 1.117 m2, loại đất 3L và thửa đất số 2181, diện tích 868 m2, loại đất V+T. Tuy nhiên, qua đối chiếu hồ sơ địa chính thì thực tế thửa đất số 2181 do ông Võ Văn S đang sử dụng. Hiện trạng bà H không sử dụng đất tại vị trí này.

Tại cuộc họp ngày 18/9/2020, các ngành chức năng Huyện và Ủy ban nhân dân xã A thống nhất các nội dung:

Việc Ủy ban nhân dân huyện C cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 3838/413745 cho gia đình hộ bà H hai thửa đất, gồm thửa đất số 676, diện tích 1.117 m2, loại đất 3L và thửa đất số 2181, diện tích 868 m2, loại đất V+T, là không đúng quy định tại thửa đất số 2181, bởi qua đối chiếu hồ sơ địa chính thể hiện thực tế thửa đất số 2181 do ông Võ Văn S đang sử dụng. Hiện trạng bà H không sử dụng đất tại vị trí này.

Kiến nghị thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của hộ bà H đối với thửa 2181, do cấp không đúng quy định tại điểm c, mục 56 sửa đổi, bổ sung điểm b và điểm c khoản 4 Điều 87 (Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ) của Nghị định số 01/2017/NĐ-CP ngày 06/01/2017 của Chính phủ, như sau: “Trường hợp người sử dụng đất phát hiện Giấy chứng nhận đã cấp không đúng quy định của pháp luật về đất đai thì gửi kiến nghị bằng văn bản đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất có trách nhiệm kiểm tra, xem xét quyết định thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp không đúng quy định của pháp luật về đất đai;” Do đó, ngày 16/12/2020, Ủy ban nhân dân huyện C ban hành Quyết định số 2118/QĐ-UBND về việc thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 3838/413745 ngày 10/8/2000 đã cấp cho hộ bà H ngày 10/8/2000 là đúng theo quy định của pháp luật. Yêu cầu khởi kiện của bà H là không có cơ sở.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, ông Huỳnh Hữu N và anh Huỳnh Minh H2 trình bày: Thống nhất ý kiến của bà H.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Đinh Văn T trình bày:

Quyết định số 2118 là đúng, yêu cầu khởi kiện của bà H là không có căn cứ, vì thực tế thửa đất số 2181, diện tích 686 m2 nằm chồng lấn lên thửa đất của người khác. Ông không đồng ý việc bà H cho rằng thửa đất số 2181 có liên quan đến ông, vì thửa đất này cha mẹ đã cho ông sử dụng ổn định từ những năm 1980 đến nay, theo Sổ Mục kê là thửa đất 1, lô số 1351, tờ bản đồ số 2, diện tích 2.430 m2, tên chủ sử dụng đất là Đinh Văn T. Ông đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (giấy tạm) số 524/GCN-ĐĐ ngày 17/7/1989, số thửa 1958, diện tích 2.430 m2, loại đất QT. Ngày 25/9/1997, ông được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lần đầu gồm các thửa: 564, 2185, 756, 773. Vào năm 2000, ông được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 756, còn thửa 2182, diện tích 1.700 m2 còn sót lại chưa kê khai đăng ký cấp giấy.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Đinh Văn Bé H3 trình bày:

Thống nhất với ý kiến của ông T.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Võ Văn S trình bày: Ông không có ý kiến và xin vắng mặt suốt quá trình xét xử của Tòa án.

Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 17/2022/HC-ST ngày 23/5/2022 và Quyết định sửa chữa, bổ sung bản án số 26/2022/QĐ-TA ngày 31/5/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang đã quyết định:

Căn cứ Điều 3, Điều 30, Điều 116, điểm a khoản 2 Điều 193 Luật tố tụng hành chính; Điều 66, Điều 100, Điều 203 Luật Đất đai năm 2013; điểm c khoản 4 Điều 87 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ; Điểm 56 Điều 2 Nghị định số 01/2017/NĐ-CP ngày 01/6/2017 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung điểm c khoản 4 Điều 87 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

Bác yêu cầu khởi kiện của bà Đinh Thị H về khiếu kiện yêu cầu hủy Quyết định số 2118/QĐ-UBND ngày 16/12/2020 của Ủy ban nhân dân huyện C về việc thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 3838/413745 ngày 10/8/2000 do Ủy ban nhân dân huyện C cấp cho hộ bà Đinh Thị H.

Ngoài ra Bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí hành chính sơ thẩm và tuyên về quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 30/5/2022, người khởi kiện bà Đinh Thị H và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Huỳnh Hữu N có chung một đơn kháng cáo yêu cầu sửa bản án sơ thẩm, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà H.

Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay:

Ông Nguyễn Thanh H1 giữ nguyên kháng cáo của bà Đinh Thị H và ông Huỳnh Hữu N. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà H không chỉ có thửa đất số 2181, mà còn có thửa đất số 676, Ủy ban nhân dân huyện C thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã làm ảnh hưởng đến việc bà H tặng cho ông Đinh Văn C thửa đất số 676, nên trình tự, thủ tục ban hành Quyết định số 2118 là không đúng quy định của pháp luật. Đề nghị sửa bản án sơ thẩm và chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà H. Bà H không quản lý, sử dụng thửa đất số 2181, mà ông Võ Văn S mới là người quản lý, sử dụng thửa đất số 2181. Đất của bà H là thửa 2182 hiện do ông T và anh Bé H3 đang quản lý sử dụng, bà H đã khởi kiện vụ án dân sự đối với thửa đất số 2182.

Bà Đinh Thị H và ông Huỳnh Hữu N nhất trí ý kiến của ông Nguyễn Thanh H1. Bà H yêu cầu Tòa án xem xét lại thửa đất số 756 vì thửa đất này cha mẹ cho ông T với bà, nhưng Ủy ban lại cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa đất số 756 cho ông T là sai.

Ông Đinh Văn T và anh Đinh Văn Bé H3 không đồng ý yêu cầu kháng cáo của bà H và ông N.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh có ý kiến Hội đồng xét xử và người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng quy định của Luật tố tụng hành chính; Đơn kháng cáo hợp lệ về hình thức. Về nội dung đề nghị bác kháng cáo và giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Đơn kháng cáo của bà Đinh Thị H và ông Huỳnh Hữu N đảm bảo hình thức, thời hạn, đủ điều kiện để giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.

Phiên tòa đã được triệu tập hợp lệ, người đại diện hợp pháp và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện Ủy ban nhân dân huyện C, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Võ Văn S vắng mặt, nhưng họ đều có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt. Theo quy định tại Điều 225 Luật tố tụng hành chính thì việc xét xử phúc thẩm vẫn được tiến hành.

[2] Bà Đinh Thị H khởi kiện đối với quyết định hành chính của Ủy ban nhân dân huyện C có nội dung thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho bà Hiệp, trong thời hạn chưa quá 01 năm, kể từ ngày có quyết định bị khởi kiện. Do đó Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định về thời hiệu khởi kiện, đối tượng khởi kiện, thẩm quyền giải quyết vụ án là đúng quy định tại các điều 30, 32, 116 Luật tố tụng hành chính.

[3] Tại Điểm d khoản 2 Điều 106 Luật Đất đai năm 2013 quy định: “ Nhà nước thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp trong các trường hợp sau đây: ...

d. Giấy chứng nhận đã cấp không đúng thẩm quyền, không đúng đối tượng sử dụng đất, không đúng diện tích đất, không đủ điều kiện được cấp, không đúng mục đích sử dụng đất hoặc thời hạn sử dụng đất hoặc nguồn gốc sử dụng đất theo quy định của pháp luật đất đai, trừ trường hợp người được cấp Giấy chứng nhận đó đã thực hiện chuyển quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất theo quy định của pháp luật đất đai”.

Tại tiết d, đ điểm 4 khoản 26 Điều 1 Nghị định số 148/2020/NĐ-CP ngày 18/12/2020 của Chính phủ quy định:“ 4. Việc thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp không đúng quy định của pháp luật về đất đai tại điểm d khoản 2 Điều 106 của Luật Đất đai được thực hiện như sau: … d) Trường hợp người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất phát hiện Giấy chứng nhận đã cấp không đúng quy định của pháp luật về đất đai thì gửi kiến nghị bằng văn bản đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất có trách nhiệm kiểm tra, xem xét, quyết định thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp không đúng quy định của pháp luật về đất đai;

đ) Cơ quan có thẩm quyền thu hồi Giấy chứng nhận quy định tại các điểm a, b, c và d khoản này là cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận tại thời điểm thu hồi Giấy chứng nhận;” Như vậy, Quyết định số 2118 đã được ban hành đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định tại điểm d khoản 2 Điều 106 Luật Đất đai năm 2013 và tiết d, đ điểm 4 khoản 26 Điều 1 Nghị định số 148/2020/NĐ-CP ngày 18/12/2020 của Chính phủ;

[4] Bà Đinh Thị H được Ủy ban nhân dân huyện C cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 3838/413745 ngày 10/8/2000 hai thửa đất, gồm: thửa đất số 676, diện tích 1.117 m2 và thửa đất số 2181, diện tích 868 m2. Ngày 28/8/2017, bà Đinh Thị H tặng cho hộ ông Đinh Văn C thửa đất số 676 và đã được cập nhật sang tên ông Đinh Văn C. Như vậy, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 3838/413745 ngày 10/8/2000 do bà Đinh Thị H đứng tên chỉ còn thửa đất số 2181, diện tích 868 m2.

Theo Báo cáo số 466/BC-TN&MT ngày 24/9/2020 của Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện C; đồng thời trong quá trình xét xử sơ thẩm và tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, bà Đinh Thị H cũng xác nhận trên thực tế bà Đinh Thị H không quản lý, sử dụng thửa đất số 2181, mà người trực tiếp quản lý, sử dụng thửa đất số 2181 là ông Võ Văn S.

Do vậy, có căn cứ để xác định Ủy ban nhân dân huyện C cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ bà Đinh Thị H đối với thửa đất số 2181 là không đúng đối tượng sử dụng đất. Do đó, Ủy ban nhân dân huyện C thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp không đúng đối tượng sử dụng đất là đúng quy định của pháp luật đã viện dẫn trên.

[5] Bà Đinh Thị H trình bày đất của bà là thửa đất số 2182, nhưng trên thực tế thửa đất số 2182 hiện do ông Đinh Văn T và anh Đinh Văn Bé H3 đang quản lý, sử dụng, còn người đứng tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 2182 lại là ông Võ Văn S.

Sự việc các bên đang có tranh chấp đối với thửa đất số 2182 đã được Tòa án nhân dân huyện C thụ lý số 147/2021/TB-TLVA ngày 05/4/2021, không ảnh hưởng đến việc giải quyết khởi kiện của bà Đinh Thị H đối với Quyết định số 2118.

[6] Bà Đinh Thị H và ông Huỳnh Hữu N kháng cáo nhưng không cung cấp được chứng cứ gì khác để chứng minh cho yêu cầu kháng cáo, yêu cầu khởi kiện của ông bà là có căn cứ và hợp pháp. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị bác kháng cáo của bà Đinh Thị H và ông Huỳnh Hữu N, giữ nguyên Bản án sơ thẩm là phù hợp.

[7] Do không được chấp nhận kháng cáo nên bà Đinh Thị H và ông Huỳnh Hữu N đều phải chịu án phí hành chính phúc thẩm.

[8] Quyết định của Bản án sơ thẩm về án phí hành chính sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[9] Ngoài ra, trong quá trình Tòa án cấp sơ thẩm đang tiến hành giải quyết vụ án thì Ủy ban nhân dân huyện C tiếp tục ban hành Quyết định số 2183/QĐ-UBND ngày 04/5/2022 hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 3838/413745 ngày 10/8/2000 do Ủy ban nhân dân huyện C cấp cho hộ bà Đinh Thị H; đồng thời đã triển khai đến bà Đinh Thị H vào ngày 04/6/2022 (bút lục số 54, 55), nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không đề cập để giải quyết đối với Quyết định số 2183 nêu trên là không đúng quy định tại khoản 2 Điều 193 Luật tố tụng hành chính. Tuy nhiên, việc thiếu sót trên không làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, nên không nhất thiết phải hủy Bản án sơ thẩm vì lý do này.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 1 Điều 241 của Luật Tố tụng hành chính; Điều 34 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

2. Không chấp nhận kháng cáo của bà Đinh Thị H và ông Huỳnh Hữu N; Giữ nguyên Bản án hành chính sơ thẩm số 17/2022/HC-ST ngày 23/5/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang;

Bác khởi kiện của bà Đinh Thị H yêu cầu hủy Quyết định số 2118/QĐ- UBND ngày 16/12/2020 của Ủy ban nhân dân huyện C, về việc thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 3838/413745 ngày 10/8/2000 do Ủy ban nhân dân huyện C cấp cho hộ bà Đinh Thị H, cư ngụ ấp Mỹ Trung, xã M.

3. Bà Đinh Thị H và ông Huỳnh Hữu N phải nộp án phí hành chính phúc thẩm, mỗi người 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) và được khấu trừ tạm ứng án phí đã nộp 600.000 đồng (Sáu trăm ngàn đồng) theo Biên lai thu số 0000196 và Biên lai thu số 0000197, cùng ngày 31/5/2022 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Tiền Giang.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

67
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai số 816/2022/HC-PT

Số hiệu:816/2022/HC-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hành chính
Ngày ban hành: 27/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về